Bảo tàng tương lai: Nhà kiến tạo hay công cụ của quyền lực mềm?
Khái niệm quyền lực mềm (soft power) được giáo sư người Mỹ Joseph Nye đưa ra lần đầu tiên vào năm 1990 trong cuốn sách “Liên kết để Lãnh đạo: Thay đổi bản chất của sức mạnh Mỹ”. Lúc đầu, được sử dụng trong lĩnh vực quan hệ quốc tế, khái niệm này mô tả ‘khả năng một nhân tố chính trị gây ảnh hưởng gián tiếp thông qua các cấu trúc, văn hoá hay hệ tư tưởng, và không ép buộc, lên hành vi của các nhân tố khác’. Hai mươi lăm năm sau, trong cuốn sách nhan đề “Các thành phố, Bảo tàng và Quyền lực mềm”, (AAM Press, 2015), Gail Dexter Lord (đồng sáng lập và đồng chủ tịch của tổ chức Lord Cultural Resources) và Ngaire Blankenberg (cố vấn cao cấp của Lord Cultural Resources) đã đưa ra một định nghĩa quyền lực mềm cập nhật hơn khi họ xét nó một cách cụ thể hơn trong các phạm vi ảnh hưởng của chính nó.
Dưới đây là bài lược dịch nội dung cuộc phỏng vấn học giả Gail Dexter Lord của tạp chí AMA (Art Media Agency), trao đổi về những ý nghĩa mở rộng của khái niệm quyền lực mềm cũng như ảnh hưởng của các bảo tàng trong tương lai với vai trò là một công cụ quan trọng thực thi quyền lực này .
Triển lãm “SILENT TALK” của ba nghệ sỹ Công Kim Hoa (Việt Nam), Wattanachot Tungateja (Thái Lan) và Mukai Katsumi (Nhật Bản) là sự kiện giao lưu quốc tế giàu ý nghĩa tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Hà Nội, tháng 5/2018. ©Andrea Tran
Để bắt đầu, xin bà có thể giải thích một cách vắn tắt về khái niệm quyền lực mềm?
Quyền lực mềm có nghĩa là ý chí và khả năng ảnh hưởng đến con người và gây ra các hành vi thông qua những công cụ/phương tiện văn hoá và hòa bình. Nó trái ngược với quyền lực cứng, mang tính cưỡng ép hơn. Ngày nay, như chúng ta thấy, cần phải có các thành phố biết tận dụng khả năng gây ảnh hưởng của họ để giải quyết các vấn đề to lớn hơn trong tương lai: giảm thiểu CO2, quản lý các trào lưu di dân, sự hội nhập của những cư dân mới, vân vân.
Đó có phải là chủ đề chính trong cuốn sách “Các thành phố, Bảo tàng và Quyền lực mềm” của bà?
Đúng vậy. Trong vòng 25 năm qua, khái niệm quyền lực mềm đã được xây dựng với sự tham chiếu qua các hoạt động của Mỹ. Theo các bảng xếp hạng quốc tế về quyền lực mềm của các quốc gia, chẳng hạn như trong báo cáo của The Economist, thì Pháp được xếp vị trí thứ tư, còn Vương quốc Anh đứng đầu. Do đó, như chúng ta thường thấy, quyền lực mềm đóng vai trò như một đòn bẩy trong hoạt động ngoại giao.
Theo chúng tôi, bước vào thế kỷ 21, trung tâm quyền lực mềm sẽ chuyển từ Nhà nước (State) sang các đô thị (city). Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, hơn 50% dân số thế giới cư trú ở thành thị. Đây là một sự thay đổi văn minh to lớn. Hơn nữa, chúng tôi tin rằng các bảo tàng - đa số nằm trong các vùng đô thị - sẽ trở thành cốt lõi của quyền lực mềm này. Chúng tôi tin rằng cho đến nay, các bảo tàng vẫn là “những người khổng lồ đang ngủ”.
Chương trình “Cả nhà cùng đi bảo tàng” được người dân hào hứng tham gia tại Norton Simon Museum, Mỹ. ©Norton Simon Museum.
Vì sao thưa bà?
Các bảo tàng tiềm ẩn những quyền lực rất lớn: chúng chiếm một vị trí không thể thay thế trong các mạng lưới đô thị, thu hút được đông đảo quần chúng; chúng có ảnh hưởng đáng kể đến giá trị của các bất động sản nằm trong các khu vực lân cận với bảo tàng; chúng là những trung tâm tri thức, v.v... Hiện nay, các bảo tàng vẫn chưa gắn kết hoàn toàn với những vấn đề nổi cộm của các đô thị ‘chứa chấp’ các bảo tàng đó, nhưng điều này trong tương lai sẽ thay đổi.
Xin bà giải thích rõ hơn về tầm quan trọng ngày càng tăng của các đô thị?
Hơn bao giờ hết, đô thị là động cơ cho sự tăng trưởng. Các nguồn lực của các quốc gia ngày càng giảm đi ở mọi nơi, nhất là trong văn hoá, và các chính phủ tiếp tục thông báo rằng họ ngày càng có ít ngân quỹ hơn - đó là hậu quả của những cuộc khủng hoảng về khoản nợ của các quốc gia.
Điều này xảy ra trong bối cảnh thất bại của các nhà nước?
Chúng ta vẫn chưa thể nói chắc về vấn đề này, nhưng có điều chắc chắn là: cán cân tài chính - đã từng chiếm ưu thế từ rất lâu nay - đang có những thay đổi sâu sắc. Lấy ví dụ, các nước như Pháp và Vương quốc Anh trước đây đã lấy từ ngân quỹ quốc gia để góp cổ phần vào các viện bảo tàng từ 60% đến 70%, hoặc thậm chí 100%, song hiện nay chúng tôi thấy rằng nguồn tài lực này đang giảm sút liên tục. Thế nhưng, các bảo tàng lại luôn được xem như là những nhân tố của quyền lực mềm của quốc gia, nhờ vào các chương trình triển lãm của chúng, nhờ vào các tác phẩm nghệ thuật trong các bộ sưu tập của chúng, v.v.
Để có những khoản kinh phí đóng góp từ chính phủ Mỹ, các bảo tàng ở Mỹ đã cam kết đảm bảo việc xây dựng một nhận thức về hình ảnh đất nước trên trường quốc tế có lợi cho nước Mỹ.
Một buổi tham quan bảo tàng MoMA của những người cao tuổi. ©The New York Times
Điều này rõ ràng đã xảy ra với những trào lưu nghệ thuật, ví dụ như Chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng, được Mỹ tận dụng sau Thế chiến 2?
Đúng thế. Cuốn sách của Serge Guilbault nhan đề “New York đã đánh cắp ý tưởng Nghệ thuật Hiện đại như thế nào”, xuất bản năm 1983, đã giải thích rõ vấn đề này. Đó là một trong những cuốn sách chúng tôi rất quan tâm, và chúng tôi đã trích dẫn nó trong chương đầu của cuốn sách của chúng tôi.
Ngày nay, cán cân kinh phí đã thay đổi. Các bảo tàng lớn từng được chính phủ tài trợ từ 70 đến 100% kinh phí thì hiện nay chỉ được hỗ trợ khoảng 50%. Điều đó có nghĩa là họ phải tự phát triển ngân quỹ hoạt động của chính mình.
Trong khi đó, các đô thị đang ngày càng trở nên tích cực hơn và tất cả đều tìm cách có được vị thế nhất định trên trường quốc tế. Ngày nay, các đô thị chịu trách nhiệm tới 80% GDP của một quốc gia; chúng là những trung tâm của nền kinh tế và sự tăng trưởng, và không còn có thể dựa vào chính phủ để tồn tại trên trường quốc tế. Hơn nữa, các đô thị rất tích cực trong cuộc chiến chống lại hiện tượng nóng lên toàn cầu, trong các vấn đề di cư, xã hội, văn hoá, vân vân. Tuy nhiên, các đô thị vẫn chưa được hưởng lợi từ sự hiệp lực to lớn của chúng để có thể phát triển hơn. Ví dụ, khi chúng tôi phỏng vấn các nhân viên xã hội có xuất xứ từ nhiều nguồn gốc khác nhau, rất ít người cho biết họ đã từng làm việc ở các viện bảo tàng - những cơ sở có khả năng tạo nên sự hợp tác đầy kết quả giữa cá nhân với tổ chức này.
Các bảo tàng là những đồng minh tự nhiên của tất cả các nhà cung cấp dịch vụ xã hội; đặc biệt, chúng đại diện cho một cách thức hội nhập vô cùng hiệu quả trong thời đại toàn cầu và di dân.
Nhà hát Opera Sydney biến thành tác phẩm điêu khắc ánh sáng 3D khổng lồ trong lễ hội Vivid Sydney 2018. ©Artdaily
Quyền lực mềm của một thành phố mang lại lợi ích cho ai? Nó là công cụ mới nhằm hợp pháp hóa địa vị các tầng lớp thống trị?
Đây là một trong những chủ đề chính mà cuốn sách của chúng tôi đề cập. Các bảo tàng đã và vẫn sẽ là những công cụ mạnh mẽ nhất để hợp pháp hoá quyền lực của các tầng lớp cầm quyền.
Một số bảo tàng của Pháp, nơi mà các bộ sưu tập thu thập hiện vật từ các cuộc chinh phạt thuộc địa, là một ví dụ điển hình cho vấn đề này. Điều này cũng phản ánh một thực tế rằng các bảo tàng là những tổ chức nhận được quyền lực cứng (hard power) của Nhà nước đang cấp kinh phí cho chúng. Nhiều bộ sưu tập bảo tàng đã được xây dựng từ các hành vi xâm lược, cướp bóc, chiếm đoạt, v.v...
Trong bối cảnh này, không thể phủ nhận được một sự thật rằng bảo tàng là công cụ của giới tinh hoa. Một số người đã né tránh can dự vào các hoạt động của bảo tàng cũng do những nguyên nhân này, và bởi vì họ cho rằng các bảo tàng không dành cho họ, mà thuộc về các tầng lớp thống trị.
Ngày nay, các bảo tàng phải có sự lựa chọn, và có lẽ họ nên tập trung nhiều hơn vào công chúng của mình. Đây không hẳn là một hướng lựa chọn hoàn toàn tự nguyện, mà đó là do sự thúc ép chủ động của các chính phủ.
Các bảo tàng phải mang lại nhiều ý nghĩa hơn cho công chúng của mình. Đó là một xu hướng: trong 20 năm qua, các bảo tàng đã được xác định lại là một công cụ giáo dục - cùng với trường học và thư viện; nó là một trong ba trụ cột của nền giáo dục.
Trong tương lai, các bảo tàng vẫn sẽ phát triển. Từ vai trò giáo dục, chúng trở thành các công cụ của quyền lực mềm.
Bảo tàng Quyền con người ở Canada luôn tạo điều kiện cho các nghệ sỹ hay nhà hoạt động giao lưu với công chúng. ©Canadian Museum for Human Rights.
Theo một báo cáo mới đây của Larry’s List* thì có tới 37% số người sưu tầm đã tham gia vào Hội đồng quản trị của các bảo tàng, và do đó, họ có tiếng nói quyết định trong hoạt động của chúng?
Điều này cũng phản ánh một xu thế. Ở các thành phố, những người giàu có nhất ngày càng giàu hơn. Các bảo tàng cũng có xu hướng tương tự, nhất là các bảo tàng nghệ thuật [Các bảo tàng của các đô thị lớn và giàu có ngày càng có quy mô hơn]. Thị trường nghệ thuật là khu vực phi điều tiết nhất trên thế giới. Dần dần, các bảo tàng nghệ thuật đã trở thành những công cụ quan trọng với sự cạnh tranh hợp pháp của các nghệ sỹ. Mặt khác, không phải vì nhiều nghệ sỹ đã chứng minh ‘họ là lương tâm xã hội’, cũng không phải họ đã chia sẻ mối ưu tư của mình vì lợi ích của môi trường sống hoặc vì tình đoàn kết. Chẳng hạn, có những nhóm nghệ sỹ đặc biệt phản đối việc một số bảo tàng lớn nhận nguồn tài trợ của các công ty dầu lửa [vì theo họ là những tổ chức huỷ hoại môi trường sống của con người và sinh quyển]. Xét từ quan điểm này, mọi thứ đang thay đổi. Ngoài ra, một trong những xu thế mới nhất là các bảo tàng đang ngày càng có các nghệ sỹ tham gia vào Hội đồng quản trị.
Theo tôi - và chúng tôi cũng đã viết về điều này trong chương cuối của cuốn sách: “Có 32 cách thức để các bảo tàng kích hoạt quyền lực mềm của họ, và hội đồng quản trị của một bảo tàng không phải là chỗ dành cho những người có quyền lực nhất, mà phải là nơi phản ánh quan điểm hoạt động của chính quyền thành phố có bảo tàng đó.
Một nhà tu hành tham quan Bảo tàng Công viên Phật giáo Smitri, Patna, India. ©Buddha Smitri Park Museum
Toàn cầu hoá có ảnh hưởng thế nào tới các bảo tàng?
Một mặt, chúng ta đang chứng kiến sự gia tăng của các bảo tàng đặc thù, các bảo tàng được xây dựng nhằm tạo ra những bản sắc mang tính địa phương và thúc đẩy những nghiên cứu về các chủ đề đang phát sinh trong khu vực: dòng di dân, lịch sử cá nhân, nhân quyền, v.v... Đây cũng là trường hợp của bảo tàng Mucem tại Marseille, Pháp, hoặc của Bảo tàng Quyền con người ở Winipeg (Canada). Những bảo tàng này đang đi đầu trong ý tưởng về quyền lực mềm này.
Ngoài ra, nhiều bảo tàng đang thu thập hiện vật theo khẩu hiệu của “Tuyên ngôn về Tầm quan trọng và Giá trị của các Bảo tàng Phổ quát” (Declaration on the Importance and Value of Universal Museums) - bao gồm Bảo tàng Anh, Bảo tàng Getty, Bảo tàng Metropolitan, v.v... Theo quan niệm phổ quát về bảo tàng, các viện bảo tàng muốn chống lại việc trao trả cho các quốc gia những hiện vật từng bị đánh cắp [do bị xâm lược và/hoặc trong quá khứ từng là thuộc địa cũ].
Hiện nay có hai trường phái phát triển bảo tàng: Trường phái thứ nhất - xuất phát từ quan điểm quyền lực cứng và ý tưởng được xây dựng từ thời thuộc địa/thực dân - nhằm mục đích thúc đẩy nền văn hoá toàn cầu và quốc tế; Trường phái thứ hai: bênh vực việc hồi hương các hiện vật và sự tái diễn dịch chúng dưới ánh sáng của tính bản sắc và bối cảnh gốc. Sự thay đổi này đặc biệt diễn ra ở nhiều bảo tàng Hy Lạp - sau những thay đổi về chính trị tại quốc gia này.
Vườn tượng của bảo tàng Nghệ thuật Boca Raton, Hoa Kỳ, là nơi du khách luôn thích thú dạo chơi. ©Boca Raton Museum of Art.
Liệu tất cả các tác phẩm của Picasso sẽ trở về Tây Ban Nha?
Trừ những tác phẩm [của Picasso] ra đời trên đất Pháp! Quan điểm ‘tự do di chuyển các hiện vật nghệ thuật’ (the free movement of artistic objects) cũng nhắm tới việc đó. Tuy nhiên, những hiện vật trong các bộ sưu tập có tính lịch sử đó là những đồ bị đánh cắp. Vấn đề rất khác.
Chúng ta cần nhớ rằng đang có sự phân cực trong cuộc tranh luận xem bảo tàng ngày nay nên như thế nào: đậm đà bản sắc hay mang tính phổ quát?
Xu hướng phát triển các biennale (liên hoan nghệ thuật lưỡng niên) là rất đáng quan tâm. Theo giám tuyển Okwui Enwezor, các biennale giống như liều thuốc giải độc cho chủ nghĩa thực dân. Các biennale thực sự thúc đẩy và hỗ trợ xu thế toàn cầu hoá, nhưng đồng thời, chúng cũng gắn chặt với một vùng lãnh thổ [nơi diễn ra các biennale với các gian trưng bày riêng của các quốc gia/vùng lãnh thổ].
Thế còn “Hiệu ứng Bilbao”? Phải chăng đó là nguồn gốc của niềm tin rằng các bảo tàng có thể là những nơi có quyền lực mềm, hay đấy là một triệu chứng của một xu thế đã có từ trước?
Cả hai. Thành phố Bilbao chịu nhiều tổn thất từ quá trình phi công nghiệp hóa; các nhà lãnh đạo của thành phố này cảm thấy cần phải xây dựng Bilbao phù hợp với nền kinh tế tri thức - nền kinh tế dựa trên tri thức. Trước năm 1997, chính quyền thành phố Bilbao đã nhận ra điều này và đã hành động một cách khôn ngoan. Trong nền kinh tế tri thức, văn hoá đóng một vai trò quan trọng và có khả năng phối kết nhiều thành phần/nguồn lực khác nhau.
Ngày nay, người ta thường nói rằng bảo tàng Guggenheim Bilbao là bảo tàng tốt nhất của thế kỷ 20, và mọi người đang quan tâm tới “Hiệu ứng Bilbao”. Nhưng đừng quên rằng trước khi có “Hiệu ứng Bilbao” đã có “Hiệu ứng Nhà hát Thành phố” (“City Opera House effect”, ý nói tới hiện tượng Nhà hát Opera của thành phố Sydney, Úc, sau khi xây dựng xong đã đem lại sự thay đổi lớn về văn hoá và kinh tế cho thành phố chủ nhà - ND)!
Ngày hôm nay, chúng ta phải phân biệt được các “công trình cột mốc” (landmark) và các “nhà kiến tạo” (place-maker) - những định chế truyền bá xu thế phát triển chung của thành phố có các định chế này định xứ. Các công trình cột mốc (landmark) khác với các thành phố (city); chúng tạo ra bản sắc cho thành phố. Các “nhà kiến tạo”, như [bảo tàng nghệ thuật Guggenheim] Bilbao, là những đầu tầu thực sự.
“Nhà kiến tạo” - đấy chính là mô hình bảo tàng mà chúng ta cần có ngày hôm nay.
A.T. (Nguồn: Tạp chí AMA, số 230)
(số 8, tháng 8/2018)
* Larry’s List: một tổ chức uy tín chuyên nghiên cứu về thị trường nghệ thuật quốc tế (https://www.larryslist.com/).