Không gian trống vắng
Nữ nghệ sỹ nhiếp ảnh người Đức Candida Höfer (sinh năm 1944) là một trong những nghệ sỹ danh tiếng, cũng là học trò của cặp đôi nghệ sỹ nhiếp ảnh Bernd và Hilla Becher. Giống với các học trò khác của Bernd và Hilla như Andreas Gursky, Thomas Ruff và Thomas Struth, tác phẩm của Höfer được biết tới là sự kết hợp hoàn hảo giữa kĩ thuật điêu luyện và ý niệm sâu sắc. Bà còn giảng dạy nhiếp ảnh ở trường Hochschule fur Gestaltung, Karlsruhe từ năm 1997 đến năm 2000.
Sinh trưởng tại một thành phố Đông Đức, Hofer ra đời trong một gia đình giàu truyền thống. Cha bà là một nhà báo danh tiếng dưới thời phát xít. Năm 1968, bà bắt đầu làm báo với xuất phát điểm là một nhiếp ảnh gia chụp chân dung. Từ năm 1970, bà làm trợ lý cho nhiếp ảnh gia người Đức Werner Bokelberg, người cũng rất nổi tiếng trong mối quan hệ với các nhân vật nổi tiếng cũng như những tác phẩm của ông chụp họ như Andy Warhol, Pablo Picasso… Sau đó bà học trong học viện nghệ thuật Dusseldorf từ năm 1973 tới 1982. Tại đây đầu tiên bà theo học phim với nhà quay phim người Đan Mạch Ole John Poulsen. Sau đó 3 năm ở tuổi 32, bà chuyển sang học nhiếp ảnh dưới sự hướng dẫn của Bernd Becher. Cùng với Thomas Ruff bà là một trong những sinh viên đầu tiên của Becher bắt đầu sử dụng màu trong ảnh, và trưng bày tác phẩm dưới dạng chiếu trên máy projector – hai phương pháp vô cùng cách tân và chống lại quan điểm thẩm mỹ về nhiếp ảnh thời bấy giờ.
Bộ ảnh về bảo tàng của Candida Hofer
Candida Höfer bắt đầu chụp ảnh màu nội thất của những tòa nhà công cộng, như văn phòng, ngân hàng, phòng đợi vào năm 1979 khi bà còn học ở Düsseldorf. Tác phẩm đột phá mang lại danh tiếng cho bà bắt đầu với bộ ảnh về những người nhập cư lang thang trên những đường phố ở Liverpool, Hamburg Düsseldorf và Cologne. Tuy nhiên nhìn lại dường như bộ ảnh này lại là một hướng đi sai lầm nếu bà tiếp tục theo con đường chụp ảnh chân dung đó, dù cho chất lượng tuyệt vời cũng như tình cảm sâu sắc bà thể hiện trong bộ ảnh này. Ngay trong bộ ảnh này khi nhìn lại nhiều nhà phê bình cho rằng vẫn thấy một sự tách rời và một khoảng cách nhất định từ cái nhìn của bà, hay có thể nói bà chỉ thực sự cảm thấy gần gũi và chụp những bức ảnh rung động nhất chỉ với những chủ thể cố định mà không có sự đối thoại qua lại nào hết. Sau đó bà tập trung chính vào chủ đề “nội thất”, “những căn phòng” những không gian hoàn toàn không có con người.
Höfer chuyên chụp các bức ảnh khổ lớn những không gian nội thất trống rỗng và những không gian thể hiện “góc độ tâm lý học của kiến trúc xã hội”. Ảnh của bà luôn được chụp từ một góc chính diện cổ điển hay một góc chéo trong bố cục. Bà thường chụp mỗi căn phòng vô hồn này từ một điểm cao gần tường để bức tường phía xa trở thành trung tâm trong hình ảnh cuối cùng. Từ những sáng tác đầu tiên, bà đã quan tâm tới việc thể hiện lại không gian công cộng như bảo tàng, thư viện, kho lưu trữ quốc gia, nhà hát lớn mà không có sự hiện diện của con người. Bảo tàng, thư viện, kho dự liệu… là những không gian mang tính biểu tượng cao, được coi như là nơi lưu trữ tri thức, lịch sử, hay là những tượng đài gợi đầy ham muốn, đại diện cho cả quá khứ và hiện tại. Còn phải kể tới sự sắp đặt tinh tế, những tác phẩm chụp không gian này được đặt trong chính bảo tàng, một sự mâu thuẫn đầy thú vị cho tác phẩm. Rất nhiều nhà phê bình đã nhắc tới sự thiếu vắng con người trong tác phẩm của Candida Höfer. Như việc những sảnh trống không, những hành lang im ắng như đưa ta vào một giấc mơ về một thế giới không có sự tồn tại của con người. Những không gian nội thất bỏ trống này dường như gợi lại một trấn thương của một câu chuyện bị gián đoạn, cũng như chỉ cho chúng ta chút ít về điều gì có thể đã diễn ra, hay sẽ có thể xảy đến. Hiệu quả thị giác của nó hướng tới một nền văn hóa thị giác đương đại mà dường như mọi thứ đều bị lạc lõng và đảo lộn.
Đại học Trinity, Dublin
Dấu ấn tận thế trong điện ảnh đã cung cấp cho chúng ta hàng ngàn hình ảnh tưởng tượng về những thảm họa không kể xiết, như viễn tưởng về việc con người bị xóa sổ khỏi hành tinh, chỉ còn lại những không gian công cộng trống không. Tuy những tác phẩm chụp nội thất của Hofer đôi lúc mang cảm giác về sự u ám hay lo âu nhưng lại vẫn không hoàn toàn là một sự tàn phá hay bỏ rơi dứt khoát. Xem xét lại những hình ảnh này một cách kĩ lưỡng, có thể thấy những dấu vết còn lại của những con người trước đó từng ở đây. Và còn những gợi ý về việc sẽ có những con người tiếp theo tới và để lại dấu vết nữa. Nhưng chỉ ở khoảnh khắc ấy thì những không gian này đang trống rỗng. Tuy những bức ảnh của bà chỉ ở kích cỡ khá nhỏ chừng hai tới ba mét, nhưng tác phẩm của bà lại tập trung vào thế giới mà ngôn ngữ thị giác của kiến trúc là biểu tượng quan trọng nhất. Những bức ảnh này bà tự đặt vào một chuỗi ảnh theo chủ đề thể chế cũng như những bức ảnh theo chủ đề địa lý, nhưng xuyên suốt tất cả là nguyên tắc chặt chẽ trong bố cục hình ảnh của bà.
Trong chuỗi ảnh mang tên “Những khu vườn mang tính động vật học” (1991) đánh dấu sự chuyển hướng của bà sang chụp các không gian nội thất của vườn thú ở Đức, Tây Ban Nha, Anh, Pháp và Hà Lan. Thực hiện phong cách đặc trưng của mình, những bức ảnh của Höfer một lần nữa hướng tới việc giải cấu trúc vai trò của các học viện ảnh hưởng tới định nghĩa cái nhìn của người xem bằng các ảnh động vật trong không gian bị nhốt của chúng. Những hàng rào mà thực tế người xem bắt đầu cảm nhận thấy là một sự dàn dựng tỉ mỉ, kĩ lưỡng – những hình dung đương đại về một thế giới tự nhiên không tưởng. Tuy nhiên những thứ ngoại lai với những loài động vật hoang dã như cá sấu, voi, hổ, và hươu cao cổ xuất hiện một cách uể oải, chán nản quay lưng lại với máy ảnh - bị tách biệt trong chính môi trường xung quanh của mình. Trong bối cảnh này, Höfer bóc trần những sở thú khỏi vẻ huyền diệu bên ngoài của chúng, bộc lộ không chỉ sự chênh lệch lớn giữa thực tế và điều lý tưởng, mà có lẽ còn đưa ra bình luận về việc sự bị động trong cái nhìn của người xem trong không gian mang tính thể chế hóa. Những loài thú trong này trông không khác mấy những con thú nhồi bông trong những bảo tàng lịch sử tự nhiên. Dường như trong thế giới của Höfer, cuộc sống hoàn toàn bị giảm thiểu một cách cực đoan. Nhưng có lẽ cuộc sống, giống như cách ta trân trọng nó nhất, đơn giản chỉ đang diển ra ở một nơi nào đó khác, trong một không gian khác. Những mô típ kiến trúc mà bà liên tục lặp lại, không phải là những không gian gia đình, hay những nơi cư trú cá nhân. Tất cả đều là những không gian công cộng hay bán công cộng được xây dựng với những mục đích cụ thể; những không gian mà con người chỉ có thể lưu giữ lại một lúc chứ không phải nơi họ sinh sống. Những không gian có xu hướng mang lại sự ẩn danh hơn là sự quen thuộc, cũng như mang tính tương tác đúng chức năng hơn là mối quan hệ thân thuộc.
Thư viện ở Melbourne
Thư viện ở Vienna
Năm 2001, bà được Bảo tàng nghệ thuật Dentelle ở Calais đặt chụp một bộ ảnh gồm 12 tấm ảnh của tác phẩm điêu khắc “Những người dân ở Calais” do nghệ sỹ Auguste Rodin thực hiện. Tác phẩm mang tên Zwölf.
Sau đó nó được trưng bày ở Documenta 11, hình ảnh của điêu khắc này đặt ở nhiều khu vực bảo tàng và khu vườn khác nhau. Từ năm 2004 tới năm 2007, bà du lịch khắp thế giới để chụp ảnh toàn bộ tác phẩm Tranh theo ngày của nghệ sỹ ý niệm nổi tiếng người Nhật On Kawara từ nhiều bộ sưu tập cá nhân khác nhau. Năm 2005, bà bắt đầu một dự án ở bảo tàng Louvre, Pháp, bà chụp lại rất nhiều không gian gallery khác nhau của bảo tàng, xem xét lại không chỉ những thứ nghệ thuật quý giá được trưng bày mà còn cả thiết kế cá nhân, vòm, gạch trang trí và tất cả đều không có sự xuất hiện của những du khách thăm bảo tàng.
Như rất nhiều nhà phê bình đã ghi nhận, bà thừa kế một truyền thống đáng chú ý của nhiếp ảnh Đức thế kỉ XX, từ những người tiên phong của trào lưu Sachlichkeit (chủ nghĩa khách quan mới) như tham vọng cả đời của nhiếp ảnh gia
August Sander để tạo nên một hệ thống điển hình biểu tượng con người Đức cho tới hệ thống kiến trúc vĩnh cửu của Bernd và Hilla Becher. Tuy nhiên trong giới hạn của hình ảnh cá nhân, và trong khu vực triển lãm lớn hơn, Höfer cho phép bà tự do sáng tạo và sự cởi mở nhiều hơn. Những tác phẩm của bà tuy lý trí, nhưng cũng giàu chất thơ. Dù cho bà làm việc theo series nhưng tác phẩm của bà không phải một loại nghệ thuật xâu chuỗi. Những bức ảnh về thư viện, bảo tàng, công viên, kho dữ liệu tuy sâu sắc nhưng không hoàn toàn hệ thống hay khắc nghiệt tới mức đưa ra một phê phán ẩn dấu nào đó về hệ thống hành chính. Mỗi một tác phẩm như một bài tập được dàn dựng một cách đối xứng nhưng lại như càng mời gọi người xem không chỉ nhìn vào trọng tâm mà còn xem xét những góc nhỏ khác để chiêm ngưỡng sự kì lạ, thú vị của không gian. Höfer có những trực giác không thể cưỡng lại với không gian ở cả sức mạnh cảm xúc tiềm ẩn cũng như sự quan tâm đến việc ghi chép tài liệu rõ ràng được bộc lộ bên ngoài.
Trong một cuộc phóng vấn năm 2009 bà chia sẻ: “Đối với tôi những không gian này có những tính cách và sinh khí của riêng chúng, biểu hiện qua sự trưng bày của nhiều lớp thời gian và những trải nghiệm khiến chúng trở thành như ngày nay, và chúng dường như cưỡng lại những thay đổi này… Có thể tôi đang nhấn mạnh một dạng “quá trình vĩnh cửu của sự thương lượng” giữa không gian và việc sử dụng không gian đó theo thời gian, nhưng một cách cơ bản hơn là giữa ánh sáng và không gian”
Đỗ Tường Linh (Sưu tầm & lược dịch)
(Bài đăng trên Tạp chí Mỹ thuật Nhiếp ảnh số 10/2013)