Mấy phát hiện mới về sơn ta DUNAND qua ba bài báo cũ thời Pháp thuộc
Vài năm trở lại đây, qua một số thông tin rất ít ỏi về Jean Dunand, Bernard Dunand và đồ sơn mài Dunand (của cả cha và con) mới được tìm thấy và công bố trên các trang đấu giá quốc tế, các trang mạng xã hội facebook và một vài tạp chí trong nước, công chúng yêu mến nghệ thuật và lịch sử mỹ thuật nước ta lờ mờ nhận ra rằng ở bên trời Tây, tại kinh đô Paris hoa lệ của nước Pháp, ngay từ đầu thế kỷ 20, có một gia đình nghệ sỹ sơn mài vĩ đại thành danh nhờ sử dụng chất liệu sơn ta - nhập khẩu từ Đông Dương - và đã tổ chức một xưởng làm đồ sơn ta với quy mô hàng trăm thợ sơn lành nghề đến từ Đông Dương và một số nước châu Á khác.
Toà nhà trưng bày dành cho Đông Dương và các lãnh thổ châu Á thuộc Pháp tại Triển lãm Quốc tế về Nghệ thuật Trang trí và Kỹ nghệ, năm 1925 ở Paris. ©picclick.fr.
Ông bố, nghệ sỹ Jean Dunand vốn là nhà điêu khắc kim loại nổi tiếng người Pháp gốc Thuỵ Sĩ, nhờ cuộc gặp gỡ định mệnh với bậc thầy sơn mài Nhật Bản Seizo Sugawara vào năm 1912 ở Paris, ông đã bị chất liệu sơn mài quyến rũ, lao vào học hỏi những bí quyết làm chủ đồ sơn từ vị sư phụ người Nhật này, và chỉ vài năm sau, ông đã chuyên tâm vào lĩnh vực chế tác đồ sơn ta, cho ra đời những sản phẩm sơn mài nghệ thuật khiến giới sành điệu ở châu Âu hết sức khâm phục và ưa thích.
Cho đến Triển lãm Quốc tế về Nghệ thuật Trang trí và Kỹ nghệ năm 1925 ở Paris, (L’Exposition Internationale des Arts Décoratifs et Industriels Modernes), nghệ sỹ Jean Dunand đã là một bậc thầy về đồ trang trí và tranh sơn mài của trào lưu Art-Deco; do đó, một mình ông được Hiệp hội các nghệ sỹ trang trí (Société des Artistes Décorateurs) uỷ thác làm hẳn một gian trưng bày riêng trong triển lãm với tên gọi “Phòng hút thuốc” - thuộc gian “Đại sứ quán Pháp”. Có lẽ cũng nên nhắc lại ở đây: đúng vào thời gian diễn ra cuộc triển lãm quốc tế chuyên về nghệ thuật trang trí có quy mô lớn chưa từng thấy này ở nước Pháp, từ tháng 4 đến tháng 10 năm 1925, thì cũng tại Paris lúc này đương có sự hiện diện của hai thầy trò Victor Tardieu và Nam Sơn Nguyễn Văn Thọ trong chuyến công du tìm kiếm nhân sự và chuẩn bị các điều kiện hoạt động khác cho Trường Mỹ thuật Đông Dương mới được thành lập theo Nghị định của Toàn quyền Merlin ký ngày 27 tháng 10 năm 1924 [1, 2].
Là những nghệ sỹ khao khát sáng tạo đang ôm mộng phát triển một nền đào tạo mỹ thuật mới cho Đông Dương, làm sao Tardieu và Nam Sơn có thể bỏ lỡ cơ hội hiếm hoi được khám phá những xu hướng nghệ thuật và nghệ sỹ quốc tế đương thời tại triển lãm này; và tất nhiên hai ông không chỉ ghé thăm gian hàng của xứ Đông Dương ở đây, mà thế nào cũng đến xem khu trưng bày của nước Pháp, trong đó có gian “Phòng hút thuốc” rất hấp dẫn với các đồ nội thất, bình phong và tranh treo tường tuyệt đẹp làm từ chất liệu sơn ta của Jean Dunand.
Hơn nữa, cùng thời gian này ở Paris có một họa sỹ trẻ tên là Joseph Inguimberty người đoạt giải thưởng tại Triển lãm quốc gia (Salon de la Nationale) năm 1924 và được Tardieu tuyển chọn vào đội ngũ giáo viên đầu tiên của Trường Mỹ thuật Đông Dương (ký hợp đồng vào tháng 8/1925 và sẽ sớm về Hà Nội cùng Nam Sơn vào cuối năm 1925 để tổ chức đợt tuyển sinh đầu tiên cho nhà trường) [3], thì chắc chắn người này cũng không thể bỏ qua triển lãm có gian hàng Đông Dương cũng như “Phòng hút thuốc” của Jean Dunand với nhiều sản phẩm liên quan tới xứ sở “Đông Pháp” xa xôi mà ông đang mong mỏi đến ngày được đặt chân tới và khám phá.
Chắc chắn một điều: một khi cả ba ông Tardieu, Nam Sơn và Inguimberty đều đã đến Triển lãm Quốc tế về Nghệ thuật Trang trí và Kỹ nghệ năm 1925 ở Paris, đã thăm gian trưng bày của Jean Dunand, thì nghệ thuật bằng sơn ta của Jean Dunand hẳn phải có tác động đến tầm nhìn của các ông đối với đường lối giảng dạy mỹ thuật nói chung và phát triển bộ môn sơn mài nói riêng tại Trường Mỹ thuật Đông Dương khi các ông trở sang Hà Nội. Đấy cũng là hệ quả rất logic.
Song có một điều băn khoăn lớn của giới mỹ thuật, nhất là những người nghiên cứu về sơn mài Việt Nam: “ngoài ba vị giáo sư nói trên và thêm Alix Ayme và Lê Phổ về sau - những người được xem là ‘có khả năng nhất’ từng tận mắt thưởng lãm những tác phẩm sơn ta của Jean Dunand - thì đối với các thế hệ họa sỹ Việt Nam nói chung và thuộc Trường Mỹ thuật Đông Dương đào tạo ra nói riêng liệu nghệ thuật sơn ta Jean Dunand có được biết đến rộng rãi và/hoặc có ảnh hưởng gì hay không?”
Câu hỏi này vẫn dai dẳng một phần cũng do những hạn chế về thông tin quốc tế ở nước ta trong suốt một thời kỳ dài từ sau năm 1954; mặt khác, các sách báo mỹ thuật và lịch sử mỹ thuật trong nước từ sau ngày hoà bình lập lại (1954) cho đến thời gian gần đây hầu như không nhắc đến cái tên “Jean Dunand” và các tác phẩm sơn mài của ông; duy nhất có cuốn sách “Hội hoạ sơn mài Việt Nam (NXB Mỹ thuật ấn hành năm 2006, tái bản năm 2014) nhắc đến ông thì lại bị nhầm lẫn khi viết rằng “… Một nhà tư sản Pháp tên là Jean Dunand… đã xuất vốn ra để thiết lập ngay một xưởng làm những đồ sơn mài và thuê người Nhật Bản và Việt Nam biết nghề làm sơn mài để thể hiện bằng sơn mài những tấm tranh và bình phong kiểu mẫu vẽ thuê hoặc mua của các họa sỹ người Pháp vẽ…” chứ không phải với danh phận của một trong những nghệ sỹ sơn mài đích thực quan trọng nhất của trào lưu Art-Déco vào đầu thế kỷ XX.
Thật may mắn, vừa qua, trong khi nghiên cứu các tư liệu sách báo thời kỳ Pháp thuộc, người viết bài này đã tìm được 3 bài báo có đề cập trực tiếp đến ‘Dunand’, ‘sơn Dunand’, ‘cha con ông Dunand’, và ảnh hưởng của ông cũng như con trai ông - Bernad Dunand, một nghệ sỹ sơn mài nổi tiếng vốn xuất thân từ xưởng sơn mài của người cha tới các họa sỹ Đông Dương trước 1945, hé lộ phần nào những bằng chứng mới về một thương hiệu ‘sơn ta Dunand’ từng lẫy lừng thế giới ngay từ thời Pháp thuộc đã được các họa sỹ thời Đông Dương biết đến rộng rãi và học tập. Dưới đây là nội dung các bài báo.
1. Bài báo “Tranh vẽ bằng sơn ta” của tác giả Nguyễn Đỗ Cung đăng trên báo Ngày Nay, số 143, ra ngày 31 tháng 12 năm 1938.
Nội dung bài báo như sau (nguyên văn chính tả của bài báo gốc được giữ nguyên; riêng những chỗ in nghiêng, gạch chân là người viết muốn nhấn mạnh những chỗ cần thiết để độc giả lưu ý):
Tranh vẽ bằng sơn ta
Ở bên Pháp, hễ nói đến nghề hội hoạ bằng sơn ta, là phải nói luôn đến tên cha con ông Dunand, cũng như chúng ta nay, nói đến bệnh chó dại là đã nghĩ ngay đến Pasteur.
Người ta tranh nhau được sống lộng lẫy trong một buồng trang hoàng toàn bằng sơn của Dunand - Phòng khách lớn của tàu Normandie trát toàn vàng bạc.
Phần đầu bài báo “Tranh vẽ bằng sơn ta”. ©Ngày Nay, số 143.
Ngồi cách Paris gần nửa vòng trái đất, ta không được cái vinh dự cả quyết, như các ông vừa rồi qua đấu xảo Paris đã được xem gần và ca tụng hết lời về những tác phẩm vẽ bằng sơn ta đó. Song những hình chụp rải rác của những tác phẩm đó in đủ màu trong tạp chí L’Illustration hoặc đầy dẫy trong các báo mỹ thuật bên Pháp gửi qua cũng đủ đưa lại cho ta sự ngạc nhiên hết sức: Vì ta tưởng không bao giờ với chất sơn ta, người ta đã có thể lộng lẫy được đến thế !
Trên một nền sơn then, rõ ràng “vừng trăng bạc” nhô lên trên khoảng trời tối âm u. Ánh xuống nước mơn man sáng, vờn trong khe đá mấp mô …
Trên tấm khác, những con ngựa ối vàng lực lưỡng tung bay trên không gian vàng ối …
Lại tấm nữa, những con thỏ bạc, mắt long lanh, đang thơ thẩn gậm những bông lúa vàng …
Vàng, bạc; lại vàng rồi bạc; nhưng ta đâu có ngờ những chất ấy đột nhiên đẹp lên được tới bực đó?
Cái đẹp của vàng bạc đó ngang giọc (sic) với những hình dáng hoa lá lạ lùng, hoặc thướt tha lộn trong những nếp áo mỏng dịu dàng bay.
Nhưng Dunand không chịu lung lạc trong cái đẹp khắc khổ của kim khí đó mà thôi; những nụ cười buồn, những cặp mắt tha thiết bằng mảnh vỏ trứng lấy của đủ các giống chim mà bao màu sắc óng chuốt hơn kém nhau do tay ông kỳ khu xếp đặt chắp nối lại; hoặc những dáng thiếu nữ tròn trĩnh, thuỳ mị một cách ấm áp và uể oải mà ông mô tả bằng sơn tây đang như được sung sướng hít thở trong cái bầu không khí lạ lùng bóng nhoáng của nền sơn ta, lại khiến ta càng ngạc nhiên hơn nữa. Ngạc nhiên lẫn trong những cảm giác êm đềm.
Cái sán lạn của “Thiên phương dạ đàm”, cái rực rỡ hoang đường trong truyện thàn tiên đã hiện ra sự thực rõ ràng sờ mó được bằng sơn sống, sơn chín, bằng vàng, bằng bạc, bằng sà cừ, vỏ trứng do trí biến chế đẹp đẽ của cha con ông Dunand mà ra.
Ông Dunand con hiện đương là khách quý của xứ Đông-dương và mới đến Hanoi được mấy hôm nay để xem xét về chất sơn ta và cách lấy sơn.
Ước ao rằng trường Mỹ thuật Đông-dương nay đang tìm tòi về nghề sơn đó sẽ ngỏ ý mời ông ở lại ít lâu dạy cho cái kết quả kinh nghiệm rực rỡ của sơn Dunand trong hơn 30 năm trời nay ở Pháp.
Nguyễn Đỗ Cung
(Hết trích)
2. Bài báo “Đi xem tranh sơn của hai nghệ sỹ Nguyễn văn-Trường và Đức-Cường” của tác giả Nhất Tâm đăng trên báo Trung Bắc Tân Văn, số 225, ra ngày 22 tháng 10 năm 1944.
Nội dung bài báo như sau (nguyên văn chính tả của bài báo gốc được giữ nguyên; riêng những chỗ in nghiêng là người viết muốn nhấn mạnh những chỗ cần thiết để độc giả lưu ý):
Đi xem tranh sơn của hai nghệ sỹ Nguyễn văn-Trường và Đức-Cường
Phòng Triển-lãm ở nhà Thông-tin vừa giới thiệu với công chúng những tấm tranh sơn của hai nhà nghệ sỹ Nguyễn-văn-Trường và Đức-Cường.
Hai ông đều trưng bày giống nhau, cũng những bình phong bằng sơn ta, hộp sơn ta, và tranh vẽ chì. Nhưng ở nghệ thuật thì khác nhau nhiều chỗ.
Phần đầu bài báo “Đi xem tranh sơn của hai nghệ-sỹ Nguyễn văn-Trường và Đức-Cường”. ©Trung Bắc Tân Văn, số 225.
Ông Nguyễn-văn-Trường, nếu nhìn ông bằng những tấm tranh vẽ chì, thì thấy ông là một nghệ-sỹ cần-cù, chịu khó và trọng sự thật dù sự thật rất khắc khổ … Không một cái gì ở cảnh vật sót mắt ông được vẽ: một cái cây ông phải vẽ cho đủ, từ cái tổ sâu ở thân, từ cái rễ phụ phơ-phất, ông đã làm một công việc hoàn toàn hơn cả máy ảnh, nhưng ông hơn cái máy ảnh ở chỗ biết điều hoà những hình, dáng, chỗ mờ tỏ để đi đến chỗ hoàn toàn của bức tranh, và nhờ những bức tranh đó ông đã biết tạo ra nhiều bức tranh sơn giá trị.
Ở những tranh sơn, những bình phong, trái lại, người ta thấy ông không ưa rườm rà lắm. Cảnh vật của ông thích đơn sơ, màu sắc ưa sáng sủa, tuy thế cũng có một đôi chỗ vẫn dụng công tỉ mỉ. Nghệ thuật của ông không táo bạo như Gia-Trí, không mới lạ như Nguyễn Khang. Ông chỉ có đem cảnh vật thực rồi in màu sắc nghệ thuật vào, để đem cho tâm hồn những người thưởng thức tranh của ông những cảm giác nhẹ-nhàng, dìu-dịu.
Ông Đức-Cường, giống ông Nguyễn-văn-Trường ở những bức tranh chì. Cũng những sự ghi chép tỉ-mỉ các cảnh vật để lấy tài liệu làm các tranh sơn.
Cũng những điều nhận xét như ông Trường, xem tranh ta nhận thấy hai ông thường cùng nhau đi vẽ một nơi, cùng ngồi một chỗ.
Ý-tưởng về nghệ-thuật và công việc làm hai ông đều giống nhau, nhưng khi tạo ra những bức tranh kia thì lại khác.
Ông Cường - ở những bức tranh của ông - tham nhiều cái tỉ-mỉ quá. Ông muốn tỏ cho mọi người biết những sự tìm tòi về màu sắc ở sơn ta của ông, bởi thế đôi khi thấy bức tranh quá sức phải chịu đựng nhiều chi tiết quá thành lộn-xộn.
Nhưng ở một bức bình phong vẽ mấy con hươu, ông Cường có ý theo như lối sơn của nhà nghệ sỹ Dunand làm sơn ta ở Pháp. Kết quả cũng đáng chú ý.
Tóm lại, ở cuộc triển-lãm này, cả hai ông đã gắng sức về mọi phương diện. Tuy là bước đầu của hai ông nhưng ai có quan niệm về mỹ thuật cũng nhận thấy tương-lai đáng lạc quan ở hai ông.
NHẤT TÂM
(Hết trích)
3. Bài báo “Les dinanderies et les laques de Jean Dunand” (Đồ đúc đồng và sơn mài của Jean Dunand) của tác giả J. Baschet đăng trên tạp chí L’Illustration, số 4415, ra ngày 15 tháng 10 năm 1927.
Bài báo đăng trên tạp chí L’Illustration nguyên văn bằng tiếng Pháp, người viết xin hẹn một dịp khác công bố toàn văn bản dịch tiếng Việt của nó, ngõ hầu giúp bạn đọc có tư liệu tham khảo thêm về nghệ thuật và kỹ thuật làm tranh sơn ta rất nổi tiếng châu Âu của Jean Dunand vào những thập niên đầu thế kỷ 20; ở đây người viết chỉ xin lưu ý mấy chi tiết trong bài báo: 1) có đội thợ châu Á, Nhật Bản và Đông Dương làm việc tại xưởng sơn mài của Jean Dunand; 2) có những tác phẩm của ông được hoàn thành với ‘không ít hơn 36 công đoạn [hay trạng thái] …’ (L’oeuvre achevée, il n’y aura pas eu moins de trente-six états) và ‘các hoạ tiết phủ sơn mài chỉ xuất hiện sau khi đánh mài và ủ trong phòng ẩm …’ (Car tout le motif recouvert de laque ne reparaît qu’au ponçage, à la suite du passage dans la chambre humide) - rất giống lối làm đồ sơn ta của các họa sỹ sơn mài Việt sau này; 3) kỹ thuật cẩn vỏ trứng đã được Jean Dunand phát triển với nhiều thành công; 4) người con trai của Jean Dunand cũng tham gia làm việc tại xưởng chế tác đồ sơn mài của cha.
Ngoài ra, không thể không trích đăng lại những bức ảnh minh hoạ trong bài báo có liên quan tới những thông tin về ‘tranh sơn ta Dunand’ mà Nguyễn Đỗ Cung và Nhất Tâm đã đề cập tới trong hai bài báo nói ở phần trên.
Jean Dunand, Những chú thỏ. Bình phong sơn mài, khoảng 1925-1927: “… những con thỏ bạc, mắt long lanh, đang thơ thẩn gậm những bông lúa vàng …” ©L’Illustration, số 4415.
TẠM KẾT
Khảo cứu lại các tư liệu báo chí cũ từ thời Pháp thuộc nói trên, chúng ta có thể tạm rút ra mấy kết luận sau:
1- Tên tuổi của nghệ sỹ sơn ta bậc thầy Jean Dunand và thương hiều đồ sơn Dunand (của hai cha con Jean Dunand và Bernard Dunand) không hề xa lạ với giới mỹ thuật Đông Dương ngay từ những năm 1930 - 1940, đặc biệt là các giáo sư và sinh viên của Trường Mỹ thuật Đông Dương - những người ôm ấp ước muốn tạo dựng một nền mỹ thuật mới ở Việt Nam với một loại hình nghệ thuật sơn mài ‘sơn son thếp vàng’ giàu tính trang trí và đậm đà bản sắc xứ sở này. Nhiều tác phẩm sơn ta tuyệt đẹp của cha con Dunand đã được một số nghệ sỹ Việt Nam “Xem gần” và “Ca tụng hết lời” tại các cuộc Đấu Xảo ở Paris ( - xem bài báo của Nguyễn Đỗ Cung).”
Jean Dunand, Ánh trăng. Bình phong sơn mài, khoảng 1925-1927: “… vừng trăng bạc nhô lên trên khoảng trời tối âm u. Ánh xuống nước mơn man sáng, vờn trong khe đá mấp mô …” ©L’Illustration, số 4415.
2- Đã từng có những họa sỹ ở Đông Dương mong muốn học hỏi phong cách và/hoặc kỹ thuật tiên tiến của ‘sơn mài Dunand’ - một thương hiệu nổi tiếng khắp châu Âu và quốc tế ngay từ nửa đầu thế kỷ 20.
3- Người con trai cả của Jean Dunand cũng là một nghệ sỹ sơn ta có tiếng ở Pháp và châu Âu, người đã thừa kế và phát huy được kỹ thuật sơn ta do người cha truyền thụ. Ông Bernard Dunand đã có chuyến công du sang đông Dương vào cuối năm 1938 để tìm hiểu nghề trồng cây sơn và khai thác nhựa cây sơn cũng như nghệ thuật sơn mài ở Bắc Kỳ [4] Dòng họ Dunand có truyền thống gắn bó với nghề sơn ta, điều này không thể phủ nhận và đáng được những người nghiên cứu, làm nghề hoặc yêu mến nghệ thuật sơn ta/sơn mài Việt Nam ghi nhận.
Jean Dunand, Chân dung bà Agnès. Sơn mài cẩn trứng, khoảng 1925-1927: “những nụ cười buồn, những cặp mắt tha thiết bằng mảnh vỏ trứng… ” ©L’Illustration, số 4415.
Jean Dunand, Chân dung bà Agnès (chi tiết), khoảng 1925-1927. ©L’Illustration, số 4415.
4 Chắc chắn giới nghiên cứu mỹ thuật của ta sẽ tiếp tục phát hiện thêm được các thông tin mới về ‘nghệ thuật sơn ta của Dunand’ [5], nhưng ngay từ bây giờ, và/hoặc với những phát hiện mới như bài viết này công bố, chúng ta cần ghi nhận lại vị trí xứng đáng của Jean Dunand (và cả người con trai Bernard Dunand) trong lịch sử nghệ thuật sơn ta như những người mở đường và tiên phong phát triển chất liệu sơn ta trong lĩnh vực mỹ thuật và nghệ thuật trang trí ở tầm quốc tế.
P.L (số 9, tháng 9/2018)
Tài liệu tham khảo
[1]. Phạm Long, Vũ Thị Minh Hương, “Phát hiện bản ‘Hợp đồng nhận việc’ của Victor Tardieu năm 1924”, Tạp chí Mỹ thuật Nhiếp ảnh, số 5(71), 2018.
[2]. Phạm Long, Vũ Thị Minh Hương, “Lần đầu tiên công bố Quyết định của Toàn quyền Đông Dương cử Nam Sơn Nguyễn Văn Thọ tháp tùng V. Tardieu đi Pháp năm 1925”. Tạp chí Mỹ thuật Nhiếp ảnh, số 6(72), 2018.
[3]. Giulia Pentcheff, “Joseph Inguimberty: 1896-1971”, Marseille, 2012.
[4]. Phạm Long và cộng sự, “Bước đầu tìm hiểu về họa sỹ sơn mài Bernard Dunand và chuyến công tác sang Đông Dương năm 1938”; (tư liệu cá nhân, sắp công bố);
[5]. Báo chí thời Pháp thuộc: Ngày Nay, Trung Bắc Tân Văn, L’Ilustration (Nhân đây người viết bài xin chân thành cảm ơn các họa sỹ Nguyễn Gia Hòa và Trịnh Lữ đã cho phép tham khảo những tư liệu sách báo quý hiếm liên quan đến “tranh sơn ta Dunand”)