Năm Tuất nói chuyện Nghê ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám
Văn Miếu - Quốc Tử Giám Thăng Long có ít nhiều mối nhân duyên liên hệ với năm Tuất. Văn Miếu được xây năm 1070 thời Lý là năm Canh Tuất. Thật lạ kỳ, Văn Miếu thờ Khổng Tử, bậc chí thánh của Nho gia, tương truyền ông cũng sinh năm Canh Tuất (551 TCN). Năm 1999, trong lần khai quật ở khu vực nhà Thái Học hiện nay, người ta đã tìm thấy một con chó đá. Cũng liên quan nhiều tới chó, một con vật linh xuất hiện nhiều lần trong không gian Văn Miếu - Quốc Tử Giám là con nghê. Xét về tần suất xuất hiện, nghê là linh vật hiện diện nhiều lần, chỉ sau rồng. Điều đáng nói ở đây, nghê không phải linh vật đặc trưng của Nho giáo và cũng không liên quan gì tới Khổng Tử. Bên thềm xuân Mậu Tuất, xin có đôi dòng tản mản về hình tượng nghê ở chốn thiêng Văn Miếu - Quốc Tử Giám Thăng Long.
Hàng cột tứ trụ của Văn Miếu Thăng Long, tượng nghê được đặt trên 2 cột giữa, chụp năm 1896. Ảnh: Firmin-André Salles
Trước khi nói về con nghê, xin được giới thiệu tóm lược về Kỳ lân - linh vật số 1 của Nho giáo1. Kỳ lân là linh vật huyền thoại, nên cũng như nghê, nó không phải là một động vật có thật. Theo truyền thuyết, kỳ lân chỉ xuất hiện trong thời bình hoặc khi có một vị thánh. Hứa Thận thời Hán, trong sách “Thuyết văn giải tự viết”: “麒,仁兽也,麋身牛尾一角;麐(麟,牝麒也。”( Kỳ, nhân thú dã, mi thân ngưu vỹ nhất giác; lân (麟), tẫn kỳ dã/tạm dịch là Kỳ loài thú nhân từ, thân nai, đuôi ngựa, một sừng, lân là giống cái). Như vậy kỳ lân cũng phân biệt đực cái ngay từ tên gọi. Kỳ lân xuất hiện trong thư tịch văn hiến Trung Hoa, nhưng phải tới đời Tống mới thực sự định hình và để lại nhiều thành tựu nghệ thuật. Kỳ lân có những đặc điểm khác biệt cơ bản với nghê là tứ chi thuộc bộ móng guốc, nên khi ngồi, hai chi trước buộc phải quỳ xuống. Khác biệt thứ hai, bàn chân kỳ lân là loài móng guốc, không có ngón như nghê. Đuôi kỳ lân là dạng đuôi bò, có cuống đuôi, phần kết thúc là một túm lông. Đuôi đặc trưng của nghê là kiểu đuôi chồn sóc. Ngoại trừ các điểm khác biệt này, đầu nghê và đầu kỳ lân cơ bản giống nhau. Đặc biệt với dạng kỳ lân nghê của người Việt chỉ khác với kỳ lân Trung Hoa ở phần móng ngón. Hình dạng đôi nghê đồng ở điện Thái Hòa thời Nguyễn có hình dáng và tư thế khá giống với kỳ lân. Ở Trung Hoa, kỳ lân được coi là linh vật hiền lành, nhân đức, phân biệt tà ngay, nhận ra kẻ xảo trá, người lương thiện. Đặc điểm này, nghê và kỳ lân giống nhau. Cho nên nhà Nguyễn đặt đôi nghê đồng trước điện Thái Hòa. Kỳ lân là linh vật số 1 của văn hóa cổ đại của Trung Hoa, đặc biệt là với Nho giáo. Kinh Xuân Thu của đức Khổng Tử cũng được gọi là Lân kinh. Những giai thoại về Khổng Tử đản sinh hay sang nước Chu tìm hiểu về lễ, nhạc đều nhắc đến kỳ lân. Tích kỳ lân hiến sách liên quan đến việc trao truyền tinh hoa tri thức của nhà Chu cho Khổng Tử đã trở thành một đồ án rất phổ biến trong mỹ thuật Trung Hoa.
Nói như vậy để khẳng định sự xuất hiện kỳ lân trong không gian thiêng của Nho giáo ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám là tất yếu. Vậy nhưng, trên thực tế, kỳ lân xuất hiện không nhiều và ít ở những vị trí thiêng liêng nhất. Chính nghê mới là con vật linh của cõi thiêng, nó chỉ đứng thứ hai sau rồng. Nghê là linh vật của Phật giáo. Nghê hạ là cách tôn xưng các vị đạo cao đức trọng, nay dùng để tôn xưng các vị đứng đầu tông phái, cũng giống như nói Túc hạ, Các hạ vậy(1998, Từ điển Phật học Hán Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.755).
Ở Văn Miếu, nghê có từ ngay ngoài cột Tứ trụ, xuất hiện trên bia Đề danh Tiến sỹ, cổng Đại Thành, nghê vào đến tận sâu trong bệ đặt khám thờ tòa Thượng điện. Nghê xuất hiện dưới hai hình thức tượng tròn và phù điêu với các chất liệu vữa đắp, gỗ phủ sơn, đá. Dù mang hình thức hư cấu, nhưng nghê gần với bộ dạng những con chó.
Nghê trên cột tứ trụ
Cột tứ trụ Văn Miếu được làm vào thời Nguyễn. Phần nhiều các kiểu cổng có cột tứ trụ, vị trí phượng múa ở giữa, cao hơn; nghê chầu hai bên, thấp hơn nhưng cột tứ trụ ở Văn Miếu Thăng Long, nghê chầu ở giữa, cao hơn; phượng múa ở hai bên thấp hơn. Nghê mắt tròn to, nhìn chúc xuống như dò xét lòng ngay gian của kẻ sỹ. Miệng nghê ngậm ngọc báu, tượng trưng cho nguồn sáng trí tuệ và sự minh bạch.
Nghê trên đỉnh cột trụ ở Văn Miếu Thăng Long. Ảnh: Nguyễn Hoài Nam
Bản vẽ nghê. Nguồn: Trần Hậu Yên Thế
Tứ trụ có đôi câu đối chữ Hán:
Đông, Tây, Nam, Bắc do tư đạo
Công, khanh, phu sỹ, xuất thử đồ
Được dịch là:
Đông, Tây, Nam, Bắc cùng đạo này (đạo Nho)
Công, khanh, phu sỹ xuất thân từ đường này
Con nghê là linh vật của trí tuệ, tương truyền có khả năng xét đoán, phân biệt được ngay gian, biết được ai là người thực tâm, thực học, ai là người rắp tâm mượn đường khoa cử để vinh thân phì gia. Người ta gán cho nghê những phẩm chất này vì đây là con vật linh gắn bó với nguồn sáng. Cho nên phải là nghê đội chân đèn chứ không phải kỳ lân hay bất cứ một linh vật nào khác.
Nghê trên bia Đề danh Tiến sỹ
Trên diềm chân bia số 24 (niên hiệu Hoằng Định thứ 3 - năm 1602), đồ án nghê chầu ngọc báu được miêu tả khá sinh động, dáng vẻ cung kính hoan hỷ hiện rõ trong tư thế và biểu cảm của khuôn mặt nghê. Đồ án nghê chầu ngọc báu là đồ án Phật giáo phát triển vào thời Lê Trung Hưng. Có thể kể ra rất nhiều tấm bia có đồ án long nghê khánh hội trên diềm bia thời này. Hễ ở đâu có rồng thì ở đó có nghê. Cho đến nay, sự xuất hiện của đôi nghê chầu trên trán bia Minh Tịnh tự bi văn (1090) là tấm bia xuất hiện sớm nhất hình ảnh nghê. Ở Văn Miếu cũng có thấy hình ảnh kỳ lân trên trán bia, nhưng là lần duy nhất xuất hiện trên trán bia niên hiệu Quang Hưng thứ 3 (năm 1580).
Phác họa cận cảnh đầu nghê (phía trước) và đuôi nghê (phía sau) làm cối cửa ở Văn Miếu. Nhìn kỹ có thể thấy hai hạt cà nghêNguồn: Trần Hậu Yên Thế
Nghê ở cổng Đại Thành
Cổng Đại Thành là cổng để bước vào sân Đại Bái và điện Đại Thành. Cổng sơn son thếp vàng vẽ đồ án long nghê khánh hội. Ở phương Đông, rồng đi liền với mây, ở Việt Nam, rồng cũng thường xuất hiện cùng nghê. Khiêm nhường, nhỏ bé, nép ở hai bên là đôi nghê đá cối cửa trong dáng vẻ hoan hỷ nghênh đón người qua lại.
Nghê chầu ở cổng Đại Thành. Ảnh: Trần Trung Hiếu
Cổng Đại Thành có ba đôi nghê, hai đôi nghê gỗ phủ sơn và một đôi nghê bằng đá. Điều rất ngộ là nghê chốn sân Trình cửa Khổng lại lồ lộ hạt ngọc hành thể hiện rõ đây là nghê đực. Nho giáo trọng nam, hẳn nhiên là thế, nhưng hình ảnh những con nghê đực xuất hiện ở đây là điều rất đáng bàn. Bởi vì Nho giáo lảng tránh những vấn đề của nhục dục, của những biểu tượng giới tính.
Nghê trên trang phục Khổng Tử và bệ thờ
Việc lập thờ tượng đức Thánh Khổng ở Văn Miếu Thăng Long đã có từ xưa. Phía sau tượng là chiếc long đình có đặt bài vị. Như vậy, với đức Thánh Khổng cùng có hai hình thức thờ tượng và thờ bài vị. Khổng Tử ngồi trên ngai, khuôn mặt nghiêm trang, hai bàn tay đặt lên nhau. Năm 1808, do nhà Nguyễn không cho phép Văn Miếu ở Hà Nội được lập tượng thờ, nên tượng đức Thánh Khổng ở Văn Miếu buộc phải chôn xuống đất. Bức tượng hiện nay do tri phủ Thuận An Nguyễn Kim Hoa người xã Bá Thủy huyện Gia Khánh cho làm năm Vĩnh Khánh thứ Nhất (1729) cung tiến. Tượng này vốn được thờ ở nơi khác, vào thập niên cuối của thế kỷ XX được chuyển vào Văn Miếu. Tượng Khổng Tử được tạo tác đại thể giống với bức tranh tương truyền của danh họa Cố Khải Chi đời Đường, mô tả Khổng Ni đương làm quan Tư Khấu ở nước Lỗ.Tượng Khổng Tử ở Nhật Bản và Hàn Quốc cũng ở dạng này. Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng là một trong những chuyên gia đã giám định bức tượng này để chuyển về thờ ở Văn Miếu như hiện nay. Khổng Tử có đặc trưng răng hô, nên ở pho tượng này, cũng giống với hầu hết các tượng đồ về ông, thường có hai chiếc răng cửa chìa ra ngoài.
Tượng Khổng Tử, thế kỷ XVIII, hiện được đặt tại Văn Miếu, trên trang phục tượng có hình nghê ngậm khánh ngọc. Nguồn: Trần Trung Hiếu
Hình nghê ngậm khánh ngọc trên trang phục tượng Khổng Tử, thế kỷ XVIII. Có lẽ ngạc nhiên hơn nữa nếu biết rằng trên trang phục của bậc chí thánh tiên Nho cũng có hình nghê ngậm khánh, dáng vẻ rất khoan hoạt, hùng tráng và hoan hỉ
Trang phục của Khổng Tử không theo điển chế về lễ phục quan chức Trung Hoa mà cũng không theo lễ phục quan chức Việt Nam. Trong hình dung của người Việt đương thời, Khổng Tử không còn là vị quan của một nước Lỗ nào đó thời Xuân Thu (Trung Quốc) mà là bậc Chí Thánh. Vậy nên áo mặc của Khổng Tử có bổ tử hình rồng. Việc coi Khổng Tử như một ông vua không ngai từ lâu đã được mặc nhiên thừa nhận ở Trung Hoa. Điều lạ lùng là trên y phục của Khổng Tử lại xuất hiện hình những con nghê ngậm khánh, dáng điệu vô cùng náo hoạt.
Bản vẽ nghê đắp nổi trên bệ đặt khám thờ bài vị Khổng Tử, Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Nguồn: Trần Hậu Yên Thế
Cũng liên quan đến khánh ngọc, ở bệ đặt khám thờ hai bên có đắp hình những con nghê mang phong cách thời Nguyễn. Một bên là đôi nghê đang vờn quả đào tượng - trưng cho sự trường thọ. Bên đối diện là đôi nghê vờn khánh ngọc - tượng trưng cho sự vinh hiển.
Trên diềm chân bia số 24 (năm 1602), đồ án nghê chầu ngọc báu được miêu tả khá sinh động, dáng vẻ cung kính hoan hỉ hiện rõ trong tư thế và biểu cảm của khuôn mặt nghê. Ảnh: Nguyễn Hoài Nam
Điểm lại sự xuất hiện của những con nghê ở Văn Miếu, ta thấy nó thể hiện rất rõ sắc thái của văn hóa Việt. Con nghê (được hình dung như thiên cẩu) trước hết là hiện thân của niềm vui sướng. Phần lớn các đồ án Nghê ở Văn Miếu thể hiện sự hoan hỷ khánh chúc cho các vị tân khoa. Nó cũng mang ước vọng rất nông dân của người Việt, mong cho đông con nhiều cháu, dài dòng lớn họ, con đàn cháu đống và có nối dõi tông đường ra vào nơi đèn sách khoa cử. Con nghê đa dạng về cung bậc cảm xúc, phong phú về chất liệu, phóng khoáng đến phá cách trong cách thể hiện. Hình tượng con nghê ở chốn thiêng ở đạo Nho chứa đựng những bất ngờ thú vị của văn hóa Việt.
T.H.Y.T