Thị trường nghệ thuật: Thách thức đạo đức & thẩm mỹ
Tổng kết thị trường nghệ thuật toàn cầu từ 2000 đến 2017, doanh số mảng nghệ thuật đương đại đã tăng gần 14 lần. Trong khi đó, số lượng người mua nghệ thuật cũng ngày càng đông lên, từ khoảng 500.000 người ở thập niên 1950 đã lên đến gần 70 triệu vào giữa thập niên 2010. Tuổi trung bình của những người đam mê nghệ thuật cũng trẻ dần; số người sưu tập ở tuổi 30 - 40 tăng rõ rệt; ngoài ra,, có tới 95% lượng người săn lùng các mặt hàng nghệ thuật trên thị trường toàn cầu hiện nay thích kết nối qua điện thoại di động. Tuy nhiên, xét ở góc độ văn hoá và thẩm mỹ, thì những con số nói trên của thị trường lại tiềm ẩn nhiều điều đáng báo động. Trong ba thập kỷ qua, sự phát triển của thị trường nghệ thuật luôn song hành với những thách thức về độ tha hoá đạo đức kinh doanh, về tư cách người nghệ sỹ bên cạnh sự xuống cấp về thẩm mỹ của giới kinh doanh và công chúng.
Nói riêng, những cuộc đối đầu - ngầm hay công khai - giữa các nhà đấu giá và những đại lý nghệ thuật/những người môi giới tại các gallery luôn sôi sục. Trọng tâm chính của các nhà đấu giá là tối đa hóa lợi nhuận, trong khi đó các gallery thì cố gắng quảng bá và bảo vệ các nghệ sỹ ‘ruột’ của mình nhằm nâng cao vị thế cá nhân mỗi nghệ sỹ cũng như giá trị các tác phẩm của họ, qua đó đem lại uy tín và lợi nhuận cho gallery. Những người mua và/hoặc sưu tầm nghệ thuật luôn chạy đôn đáo giữa hai nhóm kinh doanh luôn cạnh tranh nhau này. Song, trong thời gian gần đây, tình hình đã thay đổi nhiều. Những sưu tập gia lớn nhất giờ đây không thường xuyên ghé thăm các đại lý, các nhà môi giới hay gallery nữa. Họ chủ động du hành khắp thế giới, kéo nhau tới các hội chợ mỹ thuật, từ New York đến Hồng Kông, có tới hơn 20 hội chợ nghệ thuật cho họ tha hồ thăm thú và mua hàng.
Mặc dù, theo lệ thường, các nhà đấu giá không tham gia các hội chợ nghệ thuật, còn các đại lý/gallery lại luôn được đón chào. Song lợi thế này giờ đây không giúp các đại lý giải quyết các áp lực mới đang đè nặng lên công việc kinh doanh. Ở các thành phố lớn trên thế giới, các đại lý đang phải đối mặt với những khoản thuê mướn đắt đỏ hơn, nghĩa là phải chi phí thêm cho các không gian thuê tại các hội chợ độc quyền, cộng với chi phí đi lại, vận chuyển, bảo hiểm, nhân viên và nhà cửa. Nhiều đại lý dù có thâm niên và kinh nghiệm cũng dần dần cảm thấy kiệt sức với việc hàng năm bắt buộc phải tham dự ít nhất 3 hội chợ trong một thế giới nghệ thuật ngày càng bất ổn về thị trường.
Bức tranh Người đàn ông xa lạ do Weiss Gallery (Anh) bán đấu giá thông qua Sotheby’s năm 2011, với giá tiền 8,4 triệu bảng, được các chuyên gia xác định là tranh giả mạo danh hoạ Hà Lan Frans Hals, và do đó, nhà đấu giá Sotheby’s đã bị người mua kiện ra tòa. (Nguồn: The Financial Times, 08/2/2017).
Nhưng sự xuống cấp về đạo đức và các tiêu chí thẩm mỹ trong kinh doanh nghệ thuật ngày nay mới đáng lo ngại. Không chỉ giới nghệ sỹ ngày càng bị thế lực đồng tiền khuynh đảo với những khuynh hướng ‘nhân bản vô tính’ những sản phẩm được coi là “thời thượng” và ngày càng bị ‘hàng chợ hoá’, mà các không gian nghệ thuật cũng ngày một teo tóp trước sự tấn công của các phương tiện truyền thông mới cùng sự thiếu vắng các nhà phê bình có năng lực và công tâm. Hơn nữa, sự cạnh tranh giữa những người kinh doanh gallery với các nhà đấu giá và những tổ chức hội chợ nghệ thuật cũng góp phần đẩy sự tha hoá đạo đức kinh doanh đến mức khó lường. Các nhà buôn và các cơ sở kinh doanh nghệ thuật xoay sở nhiều chiêu trò cạnh tranh không lành mạnh, bất hợp pháp, cùng những mưu kế lôi kéo, dụ dỗ và/hoặc ép buộc các nghệ sỹ - cả nể hay thiếu tự trọng - chạy theo thị trường và đồng tiền. Thậm chí, đang diễn ra ngày một công khai và nhiều thủ đoạn buôn bán các mặt hàng nghệ thuật giả mạo tại nhiều nhà đấu giá và gallery tên tuổi. Xét ở khía cạnh đầu tư, những người giàu và/hoặc các nhà tài phiệt say mê kinh danh nghệ thuật ngày càng nhận thấy việc rót vốn vào thị trường nghệ thuật không còn là lĩnh vực đầu tư tài chính ‘nóng’ và an toàn như cách đây nhiều thập kỷ.
Việc đánh giá và thẩm định nghệ thuật ngày nay cũng bị thói hám lời, háo danh làm cho méo mó, và do đó, giá trị nghệ thuật gần như bị lâm nguy và thao túng bởi thị trường ngày càng suy đồi về văn hoá và thẩm mỹ. Không còn những hệ tư tưởng hay ý niệm tiến bộ nào - kiểu nghệ thuật “tiền phong” (avant-garde) một thời - khiến các đại lý hoặc các nhà đấu giá cảm thấy hấp dẫn và mong muốn cổ xuý hay gắn bó. Giờ đây, mặc dù các phương tiện truyền thông mới, video, instagram… cũng như uy tín của các triển lãm bảo tàng đều ảnh hưởng đến thị trường, nhưng tất cả dường như chỉ nhằm phục vụ cho một mục tiêu quan trọng nhất: kiếm tiền. Cái quan điểm cho rằng các tác phẩm “có giá cao nghĩa là có chất lượng cao” và “có giá thấp tương đương với sự thiếu hụt về chất lượng” ngày càng thắng thế. Kết quả là các nghệ sỹ chạy theo hướng “phấn đấu có được tranh tượng giá cao” nhờ những chiêu ‘thổi giá’ của các đại lý hoặc các nhà đấu giá và giới truyền thông đại chúng. Thế là, “tính tuỳ tiện, thói vị kỷ, và sự xấu xa đồi bại của nền văn hoá internet” - như Holland Cotter mô tả trong tờ The New York Times - đã có những ảnh hưởng tiêu cực tới thế giới nghệ thuật.
Hiện nay, các nghệ sỹ đương đại vẫn chưa mặn mà với các nhà đấu giá, mà họ thích hợp tác với các đại lý (gallery) độc lập hơn vì đấy không chỉ là những nơi đưa ra các quyết định có lợi cho sản phẩm của họ mà còn thực tâm chăm sóc và gắng tạo dựng danh tiếng cho các cá nhân nghệ sỹ. Bằng cách bán tác phẩm qua các đại lý có cửa hàng riêng, các họa sỹ không bị chi phối bởi các nhóm lợi ích như ở các nhà đấu giá. Các họa sỹ cảm thấy họ được bảo vệ hơn, có thu nhập ổn định hơn và mối hợp tác lâu bền hơn - những thứ mà các nhà đấu giá không thể cung cấp. Đúng vậy, một số đại lý lớn, ví dụ như Larry Gagosian, có thể bán những bức tranh mới tinh của các nghệ sỹ hàng đầu mà họ đại diện cho những khách hàng sộp thường hay nghi ngờ các tác phẩm mới ra lò. Theo Jeff Koons, một trong những nghệ sỹ đương đại có thu nhập cao nhất thế giới hiện nay, thì ông “thích làm việc với các gallery là người đại diện hợp pháp, bởi vì cho dù cũng thuộc về thế giới thương mại, song nói chung các gallery nghệ thuật vẫn có những cơ sở đạo đức mang tính truyền thống trong các hoạt động kinh doanh của họ.”
Dù sao, hiện nay, một số gallery và những cơ sở kinh doanh văn hoá nghệ thuật có thâm niên vẫn tiếp tục bán tranh tượng của các cá nhân nghệ sỹ và chỉ khoanh vùng trong một số giai đoạn cụ thể. Những nhà kinh doanh này không chạy theo các xu hướng thị trường; họ tự tin vào cảm nhận và năng lực của bản thân. Cách đây hơn 100 năm, nhà buôn tranh nổi tiếng Paul Durand-Ruel ở Paris đã kiên trì kinh doanh dòng tranh của các họa sỹ Ấn tượng - mà vào lúc bây giờ còn rất mới mẻ, ít người dám kinh doanh và hầu như không nhận được sự quan tâm của công chúng châu Âu, thậm chí bị giới phê bình tẩy chay. Song rốt cuộc, cảm quan của ông đã đúng. Ông đã đưa nghệ thuật Ấn tượng vượt đại dương, lan rộng sang thị trường Hoa Kỳ và rồi quay trở lại chinh phục châu Âu. Ông là người đã làm thay đổi toàn bộ bộ mặt thị trường nghệ thuật thời Victoria. Durand-Ruel đã thành công và đi vào lịch sử khi đánh cược toàn bộ gia tài và sự nghiệp kinh doanh nghệ thuật vào các họa sỹ Ấn tượng hầu như chưa có tên tuổi như Edouard Manet, Claude Monet và Camille Pissarro. Ngay cả Picasso cũng phải thừa nhận vai trò của các nhà buôn tranh khi nhắc tới một đại lý người Đức gốc Do Thái từng ra tay cứu vớt những họa sỹ Lập thể trong cơn khốn quẫn: “Chúng ta chắc gì đã ‘nên người’ nếu không có tài kinh doanh của quý ngài Kahnweiller?”
Ngày nay, những người kinh danh buôn bán nghệ thuật không còn thích được gọi là những “nhà môi giới”. Họ thích xưng danh và/hoặc được gọi là các giám tuyển hay các chuyên gia của gallery hơn. Những người giám tuyển nói chung là những người rất tự tin vào khả năng và vai trò của mình. Đối với đa số mọi người, các giám tuyển hẳn là những chuyên gia được đào tạo chuyên môn một cách bài bản, có nhiều kinh nghiệm hoạt động về triển lãm và bảo tàng, và thường sở hữu một nền tảng học thuật vững vàng.
Bên cạnh đó, trong cuộc “chiến tranh tâm lý” trên thị trường nghệ thuật, các nghệ sỹ thường xuyên được quảng bá như là những kẻ “thích đả phá” đang làm ra những món “góc cạnh, xù xì” - những thứ được xem là “hạt giống” hay “cấp tiến”. Dường như họ không còn quan tâm tới “tính mới” hay “tính sáng tạo” của tác phẩm. Các nghệ sỹ không còn đam mê nghề nghiệp, mà họ đã trở thành những chuyên gia chế tác ra các hình ảnh mang tính “biểu tượng”. Các gallery sử dụng các công ty quan hệ công chúng để tạo dựng “danh tiếng” cho nghệ sỹ. Thật vậy, tình trạng xưng tụng hư danh đã trở nên ngày một trầm trọng trong thế giới nghệ thuật toàn cầu nói chung và thị trường nói riêng. Mặt khác, có lẽ vì vai trò của giới phê bình nghệ thuật và ảnh hưởng của các bài viết phê bình ngày càng sa sút đã khiến cho các nghệ sỹ buộc phải tìm cách “tự cứu” bằng các chiêu “tự đề cao” - thay vì tích cực sáng tác với tinh thần sáng tạo.
Các chuyên gia thẩm định phát hiện ra chữ ký giả mạo trên bốn bức tranh ‘được cho là’ của Jackson Pollocks do gallery Knoedler bán ra thị trường. (Nguồn: Artnet, 4/2/2016)
Rõ ràng, giờ đây có lẽ không còn quy tắc đạo đức nào ràng buộc được thị trường nghệ thuật trong xu thế toàn cầu hóa. Đối với các nhà bán đấu giá cũng như hầu hết các gallery, lợi nhuận là mục tiêu tối thượng. Các tác phẩm của các nghệ sỹ đương đại hàng đầu trở thành những khoản đầu tư nóng, trong khi những người sáng tạo trẻ tuổi bị xếp hạng thấp hơn và phải đối mặt với những rủi ro cao hơn. Ngay cả một nghệ sỹ người Pháp, Thierry Ehrmann, người đang được coi là ngôi sao đang lên trên thị trường nghệ thuật đương đại, cũng phải thừa nhận rằng “các tác phẩm nghệ thuật đương đại lúc nào cũng bị chỉ trích bởi các giá bán kỷ lục tại các phiên đấu giá, trong khi chúng thường rất khó hiểu và mang bản chất ‘phá phách’ ”. Từ trước đến nay, thị trường đấu giá luôn được xem là nơi tranh đấu về tiền bạc chứ mặc nhiên không phải phấn đấu cho những “cái mới” hay “sự cách tân” của nghệ thuật, cho dù các hãng đấu giá lớn như Sotheby’s hay Christie’s luôn cố tạo dựng hình ảnh “cơ sở kinh doanh có văn hoá và đạo đức” chứ không đơn thuần là “nơi cung cấp dịch vụ mua bán nghệ thuật kiểu chợ búa”. Vì thế, hiện nay các nhà đấu giá đang có xu hướng mua hoặc tiếp quản một số gallery tên tuổi, và bằng cách đứng tên các gallery, họ mới có thể góp mặt trong các hội chợ nghệ thuật quốc tế - những sàn giao dịch nghệ thuật hưng thịnh nhất ngày hôm nay.
Các hội chợ nghệ thuật lớn, như Maastricht, Basel và New York, tất cả đều cạnh tranh với các nhà đấu giá Christie’s, Phillips, và Sotheby’s. Hội chợ nghệ thuật ngày càng trở thành nơi gặp gỡ và trao đổi lý tưởng của các nhà sưu tập giàu có, các giám tuyển bảo tàng, các nhà môi giới, các nhà nghiên cứu và phê bình nghệ thuật - những người ưa thích bầu không khí nghệ thuật cởi mở cùng với sự hiện diện của các nghệ sỹ thực thụ. Như tờ tờ The New York Times đã viết: “Các nghệ sỹ danh tiếng càng có tuổi, thế giới nghệ thuật càng có cơ hội kiếm nhiều tiền”. Những tin đồn giật gân được tạo dựng và lan truyền trước và trong thời gia diễn ra các hội chợ, phối hợp với tốc đô truy cập và truyền tin dường như không giới hạn của hệ thống internet toàn cầu, cùng với khuynh hướng thích khoe khoang phô trương của công chúng ngày hôm nay... tất cả đều làm tăng hứng thú cho những cuộc tụ họp kiểu “hội chợ” này. Ngoài ra, các nhóm môi giới có thế lực ngày nay có khả năng hợp lực để ‘chào giá’ thành công một họa sỹ trẻ vô danh nào đó. Ví dụ điển hình là trường hợp của Jean-Michel Basquiat, người đã qua đời khi còn quá trẻ, được “bảo kê” bởi một nhóm nhỏ các nhà buôn hàng đầu. Các nhà môi giới này đã thoả thuận với nhau việc ‘giữ giá’ và ‘đẩy giá’ tác phẩm của Basquiat trong các cuộc đấu giá trong suốt ba mươi năm qua, và cam kết của họ đã thành công ngoạn mục. Giá tranh của Basquiat đã tăng từ mức 5.000 USD thời kỳ đầu lên mức nhiều triệu đôla trong mấy năm gần đây.
Một nguy cơ hiển hiện khác là việc các đại lý cũng như các nhà đấu giá ngày càng phớt lờ các nguyên tắc thẩm mỹ. Họ coi việc đó là việc của các bảo tàng đang ‘nở rộ như nấm sau mưa’. Bên cạnh các bảo tàng già nua, bảo thủ, các tiêu chuẩn thẩm mỹ mới, tiến bộ hay thậm chí ‘lệch chuẩn/quá đà’, của các bảo tàng hiện đại và đương đại dù sao vẫn có những ảnh hưởng không nhỏ tới thị hiếu của công chúng. Mỗi năm có khoảng 700 bảo tàng mới được mở ra trên khắp thế giới. Hơn nữa, chỉ trong chưa đầy hai thập niên đầu thế kỷ 21, số lượng các bảo tàng mới thành lập đã tăng vọt, vượt xa tổng số lượng các bảo tàng được xây dựng trong vòng hai thế kỷ trước đây. Khi mỗi một bảo tàng mới ra đời, họ đều có xu hướng xây dựng những bộ sưu tập “có chất lượng bảo tàng”, và với nhu cầu bổ sung các hiện vật ngày một gia tăng, họ tăng cường lùng mua trên thị trường, và do vậy, cũng thúc đẩy thị trường và củng cố phần nào ‘tiêu chuẩn thẩm mỹ/thị hiếu’ của các đại lý, các nhà bán đấu giá và hội chợ.
Học giả Philip Hook trong cuốn sách mới nhất của ông nhan đề Rogues’ Gallery (nghĩa đen: lý lịch tội phạm), ấn hành năm 2017, đã đưa ra một nhận định không phải không xác đáng: “Lịch sử kinh doanh nghệ thuật là lịch sử của những câu chuyện điên rồ và lừa đảo đan xen với khôn khéo, cảm hứng và đôi khi xuất hiện cả những hành động anh hùng, quả cảm.” Điều này cũng đúng với hiện trạng thị trường nghệ thuật đương đại thế giới ngày hôm nay.
A.H.
(Nguồn tham khảo: The New York Times, The Financial Times, The Economist)