Lược sử các Triển lãm Mỹ thuật Việt Nam
(Phần 2: từ 1955 đến 1962)
6/ Triển lãm MTTQ lần thứ sáu, 1955, sơn mài lên ngôi.
Khai mạc 5h chiều 19/11/1955, mở cửa đến 5/12/1955 tại trường Cao đẳng Mỹ thuật VN, 42 Yết Kiêu, Hà Nội. Đơn vị tổ chức: Hội Văn nghệ VN.Ban Tổ chức (kiêm Hội đồng Nghệ thuật) gồm 15 người: họa sỹ Trần Văn Cẩn (trưởng ban), Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Tiến Chung, Mai Văn Hiến, Nguyễn Trọng Hợp, Nguyễn Thị Kim, Lê Quốc Lộc, Dương Hướng Minh, Nguyễn Sỹ Ngọc, Lương Xuân Nhị, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Trần Đình Thọ, Nguyễn Cao Thương, Nguyễn Văn Tỵ. Trong số đó có 4 vị không có tác phẩm bày triển lãm là Nguyễn Đỗ Cung, Mai Văn Hiến, Dương Hướng Minh và Bùi Xuân Phái. Bối cảnh lịch sử: theo Hiệp định Geneve, đất nước chia 2 miền. Từ cuối tháng 7/1954 đến 22/5/1955 đã có cuộc di dân và tập kết ồ ạt theo 2 hướng ngược chiều Bắc- Nam. Trong khi đó, miền Bắc thiết lập bộ máy hành chính rộng khắp và cải cách ruộng đất ở đồng bằng- trung du. Tất cả những vấn đề lớn kể trên cùng dư âm của cuộc kháng chiến 9 năm đều được phản ánh trực tiếp trong triển lãm MTTQ 1955.Tuy nhiên, 2 triển lãm MTTQ 1954 - 1955 chỉ cách nhau đúng 1 năm thì quả là gấp gáp. Nhưng chắc là vì “sĩ khí đang hăng”, lại gặp điều kiện thuận lợi (hoà bình) nên mọi hoạ sỹ đều hối hả vào cuộc. Tất nhiên, tổng số chỉ còn 239 tác phẩm (so với 518 của MTTQ 1954), chủ yếu mới vẽ trong vòng có 1 năm ! Cụ thể gồm: 46 lụa, 45 bột màu, 35 màu nước, 27 sơn mài, 23 ký họa, 13 phấn màu, 11 sơn dầu, 10 bộ tranh truyện, 9 cổ động, 1 sơn khắc, 12 tượng, 2 phù điêu, 4 hộp sơn mài, 2 không rõ chất liệu. 105 tác giả chính thức.Lời mở đầu của Vựng tập Triển lãm MTTQ 1955 cho biết đó là “…phòng tranh lớn hàng năm mở lần thứ 6 kể từ Cách Mạng Tháng 8 thành công”. Ban tổ chức cũng nêu rõ khẩu hiệu sáng tác: “Nghệ thuật luôn luôn đi sát quần chúng, thiết thực phục vụ nhân dân”. Đáng chú ý có đoạn: “Hình thức biểu hiện trên các tác phẩm cũng gồm nhiều vẻ khác nhau, nhưng đều bắt chung ở một nguồn chính: một nguồn mà hầu hết tác giả trong phòng triển lãm đều xác nhận là nguồn duy nhất đúng để biểu hiện được trung thực cuộc sống thực tại: đó là con đường của Nghệ thuật Hiện thực Xã hội Chủ nghĩa, con đường mà nghệ sỹ đã bước vào và đang phấn khởi tiến lên”. Đây có lẽ là lần đầu tiên con đường nói trên được công bố bằng văn bản của giới MT bởi chưa thấy điều này trong Thể lệ triển lãm Hội hoạ 1951 và vựng tập triển lãm MTTQ 1954. Nếu vựng tập MTTQ 1954 xếp danh sách tác phẩm theo vùng địa lý thì vựng tập MTTQ 1955 phân chia theo 4 chủ đề: Đấu tranh thống nhất- Cải cách ruộng đất- Kiến thiết đất nước- Sinh hoạt nhân dân, phong cảnh đất nước; riêng điêu khắc và mỹ nghệ tách ra phần cuối, gọi là Tượng và Hộp. Nếu ở MTTQ 1954, ký hoạ chiếm gần 40% thì lần này ký hoạ chỉ khiêm tốn đứng hàng thứ 5 (9,6%). Có lẽ các hoạ sỹ đã tự thấy thừa thãi ký hoạ sau 9 năm luôn vẽ vội vã nên giờ đây, họ tập trung vào làm tác phẩm. Nếu MTTQ 1954 chứng kiến tác giả Tô Ngọc Vân có 52 tranh, Nguyễn Hiêm có 30 tranh thì năm 1955 không ai có quá 10 tranh-tượng. Hoạ sỹ Nguyễn Hiêm lần này chỉ có 9 tranh gồm 3 bột màu và 6 màu nước. Các hoạ sỹ Văn Bình có 8 tác phẩm (2 sơn dầu, 1 màu nước, 3 ký hoạ, 2 hộp sơn mài), Văn Giáo có 7 tác phẩm (2 bột màu, 4 màu nước, 1 áp phích), Trọng Hợp có 7 tác phẩm (1 bột màu, 1 màu nước, 5 ký hoạ), Nguyễn Phan Chánh có 6 tranh lụa… Có 1 tác giả đặc biệt là Trần Mạnh Tuyên, Việt kiều từ Pháp về. Ông từng gửi tranh lụa về dự MTTQ 1946, nay ông về hẳn, tham dự 2 bức tĩnh vật vẽ bột màu trên lụa. Đôi vợ chồng Phạm Văn Đôn- Nguyễn Thị Kim là hiện tượng nổi bật của MTTQ 1955: ông có 4 lụa, 2 tượng, 2 hộp sơn mài; bà có 1 tượng, 1 đắp nổi thếp vàng, 1 lụa; 2 ông bà còn đứng tên chung 1 tượng và 1 bộ tranh truyện nhan đề Nông dân vùng dậy. Ngày nay tranh truyện không được tham dự MTTQ, nhưng năm 1955 thì đó là một lực lượng khá hùng hậu: trong số 10 bộ tranh thì có 7 bộ là sáng tác tập thể của sinh viên mỹ thuật.
Về giải thưởng, theo thống kê chưa đầy đủ, có 03 giải Nhất gồm: 1/ Bộ 3 tranh sơn mài Nhớ một chiều Tây Bắc, Gặt lúa ở Việt Bắc, Du kích trên ngọn Khao Luông của hoạ sỹ Phan Kế An; 2/ Tranh sơn mài Ánh sáng đến của hoạ sỹ Lê Quốc Lộc; 3/ Tượng thạch cao Nắm đất miền Nam của nhà điêu khắc Phạm Xuân Thi. Như vậy là sơn mài đã lên ngôi tại MTTQ 1955. Hiện giờ, cụ Phan Kế An vẫn giữ được Bằng chứng nhận giải Nhất của kỳ triển lãm này, bên dưới có chữ ký của nhà văn Nguyễn Tuân, đại diện Hội Văn nghệ VN- đoàn thể tổ chức triển lãm và chữ ký của hoạ sỹ Trần Văn Cẩn- Trưởng ban tổ chức triển lãm. Phần lớn các tác phẩm đoạt giải Nhất trên đây hiện bày trong Bảo tàng MTVN, riêng bức Du kích trên ngọn Khao Luông hồi đó đã được Chính phủ ta mang tặng Chủ tịch nước CHND Trung Hoa.Có 03 giải Nhì gồm: 1/ Từng giờ từng phút hướng về miền Bắc, bột màu của Lê Lam, 2/ Toàn bộ tác phẩm- 7 ký hoạ về khu công nghiệp Hòn Gai- Cẩm Phả của Nguyễn Trọng Hợp, 3/ Khu tự trị Thái- Mèo- bộ tranh thất bình (7 tấm), bột màu của Mai Long. Chúng tôi còn giữ được bản gốc Bằng chứng nhận giải Nhì MTTQ 1955 của hoạ sỹ Trọng Hợp, với 2 chữ ký của nhà văn Nguyễn Tuân và hoạ sỹ Trần Văn Cẩn. Rất tiếc, hiện chưa tìm thấy tư liệu về các giải Ba và giải Khuyến khích của MTTQ 1955.Một số bức tranh đáng chú ý khác của Triển lãm này: Lò đúc lưỡi cày- lụa của Trần Văn Cẩn, Một điệu múa - sơn mài của Nguyễn Tư Nghiêm, Chùa Thầy - sơn mài đắp nổi của Phạm Hậu, Xây dựng lại đập Bái Thượng- lụa của Nguyễn Cao Thương.
Xin tiểu kết phần này bằng chuyện của 2 hoạ sỹ Trọng Cát và Lê Lam. Hoạ sỹ Trọng Cát là tác giả của bức bột màu Cửa bể Quy Nhơn- những buổi chuyển quân. Ít người biết ông ở trong số sinh viên hiếm hoi đã trúng tuyển và theo học 2 tháng Trường Mỹ thuật Việt Nam năm 1946 do cố danh họa Tô Ngọc Vân làm hiệu trưởng tại phố Lò Đúc (xin có chuyên luận riêng về vấn đề này vào dịp khác). Năm 1950 ông đi bộ đội và sau 2 tháng vượt Trường Sơn, ông vào chiến đấu tại Khu V. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc. Ra đến nơi, cấp trên lại cử ông vào ngay Quy Nhơn cùng đoàn văn công để làm công tác tuyên truyền cho đồng bào và cán bộ ở lại sau khi ta bàn giao Liên khu V cho đối phương. Trước khi ra Bắc chuyến cuối cùng, ông đã vẽ được khá nhiều về đề tài tập kết, đó cũng là chủ đề quan trọng nhất của Triển lãm MTTQ 1955: Đấu tranh thống nhất. Có lẽ vì vậy mà tranh của ông được Ban Tổ chức xếp đứng đầu danh mục tác phẩm trong Vựng tập MTTQ 1955. Hoạ sỹ Lê Lam vắng mặt tại Hà Nội cuối năm 1955 vì đang đi công tác tại Bắc Kinh (theo dõi in ảnh màu cho Báo ảnh VN). Ông chỉ biết mình được giải Nhì khi Đại sứ quán ta ở TQ nhận được tờ báo Nhân dân gửi từ Hà Nội sang, có in bức tranh trên trang nhất, đề rõ tác giả Lê Lam- giải Nhì. Đó cũng là tranh về đề tài Đấu tranh thống nhất.
Bìa vựng tập MTTQ 1954, in bức ký họa cuối cùng của Tô Ngọc Vân.Sưu tập Ngô Mạnh Lân
Bìa vựng tập MTTQ 1955, in tranh lụa Lò đúc lưỡi cày của Trần Văn Cẩn (ảnhtrái)Áp phích MTTQ 1955, in tượng Tình Nam Bắc của Phạm Xuân Thi (ảnh phải)Tư liệu do họa sỹ Nguyễn Bình Minh cung cấp
Nguyễn Hiêm, Trận Tầm Vu, bột màu, 1948, Giải Nhất MTTQ 1954.
Phan Kế An, Nhớ một chiều Tây Bắc, sơn mài, Giải Nhất MTTQ 1955
7/ Triển lãm MTTQ lần thứ bảy
1958, lần đầu tiên do Hội Mỹ thuật VN tổ chức với sự bảo trợ của Bộ Văn hoá.Khai mạc đúng ngày 2/9/1958 tại Nhà Triển lãm 44 Yết Kiêu, Hà Nội (nay là Bộ Công an), lúc bấy giờ là địa điểm thường trực để triển lãm, thuận tiện vì ngay cạnh trường Mỹ thuật. Có lẽ triển lãm kéo dài 1 tháng.Ban Tổ chức (kiêm Hội đồng Nghệ thuật) gồm 17 người: Trần Văn Cẩn- trưởng ban, Mai Văn Hiến- phó ban, Phan Kế An, Diệp Minh Châu, Nguyễn Tiến Chung, Nguyễn Đỗ Cung, Phạm Gia Giang, Nguyễn Trọng Hợp, Nguyễn Khang, Hoàng Kiệt, Nguyễn Thị Kim, Trần Văn Lắm, Lê Quốc Lộc, Lương Xuân Nhị, Trần Đình Thọ, Huỳnh Văn Thuận, Nguyễn Văn Tỵ. Riêng họa sỹ Nguyễn Đỗ Cung không có tranh trong danh mục triển lãm. 4 danh họa khác cũng không có tranh tham dự kỳ này là Nguyễn Sỹ Ngọc, Dương Bích Liên, Bùi Xuân Phái và Nguyễn Sáng.Bối cảnh lịch sử: nước ta đang bị chia cắt 2 miền, cuộc tổng tuyển cử toàn quốc sau 2 năm theo Hiệp định Geneve đã không được tiến hành. Do đó, theo lời nói đầu của vựng tập MTTQ 1958, trọng tâm triển lãm hướng vào “kiến thiết miền Bắc tiến lên Xã hội chủ nghĩa, đấu tranh thống nhất nước nhà”. Lời nói đầu cũng nhắc đến vấn đề “Nhân văn- Giai phẩm” và nhấn mạnh “phương pháp sáng tác hiện thực Xã hội chủ nghĩa”.
Tô Ngọc Vân, Đốt đuốc đi học, màu nước, 1954, Giải Nhất MTTQ 1954.
Dương Bích Liên, Được mùa, sơn dầu, 1954
Trịnh Phòng, Du kích địch hậu chống càn, lụa, 1954, Giải Ba MTTQ 1954
Một sự kiện trọng đại của mỹ thuật VN là Hội Mỹ thuật Việt Nam chính thức thành lập ngày 26/3/1957. Vì vậy, kể từ Triển lãm MTTQ 1958, quyền tổ chức thuộc về Hội Mỹ thuật cho đúng chức năng. Lời giới thiệu trong vựng tập cũng nêu rõ là triển lãm “được sự bảo trợ của Bộ Văn hóa”. Chúng tôi đoán sự bảo trợ này có 2 nghĩa: 1/ Kinh phí, 2/ Địa điểm trưng bày (lúc ấy có lẽ phân cấp quản lý thuộc Bộ Văn hóa). Vựng tập MTTQ 1958 cũng cho biết Ban Tổ chức còn song song chuẩn bị gửi tranh tham dự Triển lãm Mỹ thuật đầu tiên của các nước XHCN tổ chức ở Matxcơva vào tháng 12/1958, đồng thời chuẩn bị cho Triển lãm Mỹ thuật VN ở các nước bạn Trung - Đông Âu theo các hiệp nghị trao đổi văn hoá 1959-60. Vựng tập công bố tổng số 688 tác phẩm, nhưng người viết đếm kỹ thấy chính xác là 687 tác phẩm, gồm: 77 sơn mài, 117 sơn dầu, 83 lụa, 87 bột màu, 29 khắc gỗ, 28 màu nước, 13 phấn màu, 29 ký hoạ, 2 sơn khắc, 165 tranh cổ động,1 bộ tranh truyện, 1 minh hoạ, 1 tranh không rõ chất liệu, 32 tượng thạch cao, 11 phù điêu thạch cao, 8 phù điêu sơn thếp, 2 chạm gỗ, 1 tượng đá cẩm thạch. Đặc biệt có 1 tranh sơn mài cỡ lớn Xô Viết Nghệ An, 1m60x3m20, sáng tác tập thể của 6 hoạ sỹ: Phạm Văn Đôn, Nguyễn Sỹ Ngọc, Nguyễn Đức Nùng, Trần Đình Thọ, Huỳnh Văn Thuận, Nguyễn Văn Tỵ. Với tay nghề của các bậc thầy, bức tranh đạt đủ độ vững vàng, tuy nhiên có vẻ chưa thật hấp dẫn, có lẽ vì suy cho cùng kỳ lý thì Hội hoạ là cõi riêng chứ khó lòng là của chung. Có tất cả 261 tác giả gồm: 168 hội hoạ, 20 điêu khắc, 167 tác giả tranh cổ động. Nếu cộng 168 với 20 và 167 sẽ thấy không khớp với 261 vì khá nhiều người vừa vẽ tranh vừa tạc tượng lại vừa làm tranh cổ động. Có 5 tác giả vừa có tranh vừa có tượng, đứng đầu là Diệp Minh Châu với 5 tranh, 10 tượng (1 sơn dầu, 2 bột màu, 1 ký hoạ, 1 minh hoạ, 1 tượng cẩm thạch, 5 tượng thạch cao, 4 đắp nổi sơn thếp). Tiếp theo là Phi Hoanh: 4 tranh sơn dầu, 1 tượng thạch cao; Song Văn: 1 tranh bột màu, 3 tượng, 3 đắp nổi thạch cao; Vũ Văn Thu: 1 tranh lụa, 1 đắp nổi thạch cao; Văn Xương: 1 phấn màu, 1 tượng thạch cao. 89 tác giả vừa có tranh hội hoạ vừa có tranh cổ động. Xét về số lượng, đứng đầu vẫn là Diệp Minh Châu, 15 tác phẩm. Tiếp theo là các ông Nguyễn Phan Chánh với 11 lụa, Phạm Văn Đôn với 11 tác phẩm (3 sơn mài, 2 sơn dầu, 6 màu nước). Các ông Phạm Hậu có 10 tranh (1 sơn mài, 9 ký hoạ), Trần Đông Lương có 10 tranh (9 lụa, 1 cổ động), Phạm Thanh Tâm có 10 tranh (1 sơn dầu, 2 lụa, 1 bột màu, 2 màu nước, 3 ký hoạ, 1 cổ động), Lương Xuân Nhị có 9 tranh (7 sơn dầu,1 sơn mài chung với Ng Tiến Chung, 1 cổ động), Phan Thông có 9 tranh (3 sơn dầu, 4 lụa, 1 màu nước, 1 cổ động), Lê Lam có 9 tranh (5 sơn dầu, 3 mực nho, 1 cổ động)… Ngược lại, cũng có những người chỉ bày 1 tác phẩm nhưng gây ấn tượng khá mạnh như Mai Văn Hiến với bức sơn dầu Những lời dạy bảo, vẽ cụ Hồ, được in làm bìa cuốn vựng tập MTTQ 1958, hay Trương Hiếu với bức khắc gỗ Cây gạo đầu bản, chỉ 1 màu đen in trên giấy dó mà đẹp đến sững sờ… Về giải thưởng, Triển lãm MTTQ 1958 có 04 giải Nhất gồm: 1/ Tát nước đồng chiêm, sơn mài của Trần Văn Cẩn, 2/ Thôn Vĩnh Mốc, sơn khắc của Huỳnh Văn Thuận, 3/ Toàn bộ tác phẩm của Diệp Minh Châu, 4/ Bộ đôi tác phẩm của Phạm Xuân Thi, 5/ Qua cầu khỉ, sơn mài của Nguyễn Hiêm. (xin trích nêu vài tranh tượng nổi bật của tác giả Diệp Minh Châu: Võ Thị Sáu trước quân thù, Lòng người miền Nam, Người mẹ miền Nam- đều bằng thạch cao, Chân dung Hồ Chủ tịch, Chân dung Lê Nin- đều là đắp nổi sơn thếp, Nhà Bác Hồ trong kháng chiến- sơn dầu trực hoạ từ năm 1951. Còn 2 tác phẩm của Phạm Xuân Thi là: Đảng như mẹ hiền muốn Nam- Bắc sum họp một nhà- tượng thạch cao và Hồ Chủ tịch chống hạn- đắp nổi thạch cao).07 giải Nhì gồm: 1/ Đế quốc Mỹ lại thử bom nguyên tử, sơn mài của Nguyễn Đức Nùng, 2/ Đón giao thừa, sơn mài của Lê Quốc Lộc, 3/ Bộ 3 tranh Đón mẹ về, sơn dầu, Tổ đổi công đập lúa, khắc gỗ, Chuyển than, khắc gỗ của Nguyễn Trọng Hợp, 4/ Thống nhất, đắp nổi sơn thếp của Nguyễn Thị Kim, 5/ Những lời dạy bảo, sơn dầu của Mai Văn Hiến, 6/ Đứa nào cũng được học cả, bột màu của Sỹ Tốt, 7/ Hai em nhỏ, tượng thạch cao của Đào Văn Can.04 giải Ba gồm: 1/ Tổ đổi công miền núi, sơn mài của Hoàng Tích Chù, 2/ Ghé thăm nhà, lụa của Trọng Kiệm, 3/ Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng, lụa của Lê Vinh, 4/ Đã đến lúc chiến đấu, lụa của Trịnh Phòng.Chúng tôi được biết và rất tin rằng hoạ sỹ Trần Đông Lương được giải thưởng tại triển lãm lần này (ông bày 9 bức tranh lụa rất xuất sắc, trong đó có bức Bác sỹ anh hùng Phạm Ngọc Thạch), nhưng rất tiếc không có thông tin cụ thể.
Sau triển lãm, phần lớn các tranh- tượng đoạt giải đã được tuyển chọn cùng với các tác phẩm ưu tú khác của 2 triển lãm 1954, 1955 đưa đi tham dự Triển lãm Mỹ thuật 12 nước XHCN tại Matxcơva và Triển lãm tranh Việt Nam tại các nước XHCN Đông Âu, tạo nên tiếng vang cho nền Mỹ thuật Việt Nam ngay khi chính thức xuất hiện trên trường quốc tế, nhất là tranh sơn mài với hiệu quả rất độc đáo. Xin khép lại phần này bằng đôi nét giới thiệu về 2 tác giả có phần ngoại lệ của MTTQ 1958. Thứ nhất là nhạc sỹ Nguyễn Đức Toàn với bức sơn dầu Hai chị em tại triển lãm. Chúng ta đều biết ông là tác giả của nhiều ca khúc cách mạng lừng danh, nhưng ít ai biết rằng ông từng học dở năm thứ hai (hệ chính thức) trường Mỹ thuật Đông Dương. Kể từ đó đến nay, ông luôn vẽ song song với làm nhạc. Tác giả thứ hai là một phụ nữ người Anh, sinh tại Luân Đôn năm 1921. Bà tên là Mary Harrison và có 2 bức tĩnh vật sơn dầu cỡ nhỏ (32x42cm) tại triển lãm. Nghe nói bà lấy chồng Việt từ bên Pháp rồi theo chồng về VN. Hồi đó, dâu Tây ở Hà Nội có tới vài người, trong đó có cả phu nhân của Bộ trưởng Y tế Phạm Ngọc Thạch. Bà Harrison được xếp việc dạy phát âm tại trường Ngoại ngữ. Lại nghe đâu rằng bà cũng không thể ở Việt Nam đến cùng vì từ cuối 1964, Mỹ ném bom miền Bắc nên bà đành trở về nước, giống như các ngoại kiều khác trong hoàn cảnh lúc bấy giờ.
Lê Lam, Từng giờ từng phút hướng về miền Bắc, bột màu, Giải Nhì TLMTTQ 1955
Nguyễn Thị Kim và Phạm Văn Đôn, Hướng Điền, tượng thạch cao, 1955
8/ Triển lãm MTTQ lần thứ tám
1960, lần đầu tiên Bộ Văn hoá chính thức đồng tổ chức với Hội Mỹ thuật Việt Nam. Một hoạ sỹ Liên Xô được giải Nhất về sơn dầu.Khai mạc đúng ngày 2/9/1960 tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật VN, 42 Yết Kiêu, Hà Nội. Đồng tổ chức: Bộ Văn hóa và Hội MTVN. Tổng số 328 tác phẩm, 185 tác giả; trong đó có 69 sơn dầu, 55 lụa, 50 sơn mài, 6 sơn khắc, 42 bột màu, 34 màu nước + mực nho, 22 khắc gỗ, 9 ký họa, 7 phấn màu, 3 trổ giấy, 1 tranh kính, 24 tượng và phù điêu thạch cao, 6 cổ động. Bìa phụ của Vựng tập MTTQ 1960 có in: “Chào mừng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà 15 tuổi và Đại hội Đảng lần thứ III” và “Bộ Văn hoá và Hội Mỹ thuật Việt Nam tổ chức từ 2 đến 30 tháng 9- 1960 tại 42 Yết Kiêu, Hà Nội”.Lời mở đầu của vựng tập MTTQ 1960 dài 14 trang- rất giống xã luận- cho thấy Ban Tổ chức muốn hướng dẫn công luận theo định hướng chính trị. Năm 1960 có nhiều sự kiện quan trọng trong đời sống chính trị VN như các kỷ niệm thành lập nước, thành lập Đảng, Đại hội Đảng III, sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam VN… Chỉ tiếc rằng Lời mở đầu không hề cho biết các chỉ số kỹ thuật của triển lãm như số lượng tác phẩm- tác giả, cũng như Ban Tổ chức (các vựng tập trước vẫn làm tốt điều này, dù lời mở đầu ngắn hơn nhiều).Để có được số lượng tác phẩm và tác giả như trên, chúng tôi đã phải đếm đi đếm lại rất vất vả vì vựng tập MTTQ 1960 có nhiều nhầm lẫn hay trùng lặp.
Bìa vựng tập MTTQ 1958, in tranh sơn dầu Những lời dạy bảo của Mai Văn Hiến, Giải Nhì MTTQ 1958
Trần Đông Lương, Anh hùng Phạm Ngọc Thạch đang làm việc, lụa, 1958.
Có 169 tác giả hội hoạ, 18 điêu khắc, 6 cổ động nhưng tổng 3 số này lớn hơn tổng số 185 tác giả vì có người vừa vẽ tranh vừa tạc tượng hay còn làm cả tranh cổ động. Tuy nhiên số lượng trên vẫn chưa đầy đủ vì có tác giả được giải thưởng mà không có trong danh sách của vựng tập. Tìm hỏi mãi sau mới biết: còn một số tranh nữa bày ở 45 Tràng Tiền để Chào mừng Đại hội Đảng III nên không có trong danh sách của Vựng tập, tuy nhiên vẫn được trao giải. Cũng như vựng tập 1958, vựng tập 1960 chia thành các phần Hội hoạ, Điêu khắc, tranh Cổ động và một phụ lục mà chúng tôi sẽ đề cập ở cuối phần này.Trong MTTQ 1960, tỷ lệ các chất liệu đích thực (sơn dầu, sơn mài, lụa…) đã là áp đảo trong khi ký hoạ chỉ còn chiếm có 3% (so với 40% năm 1954, 9,6% năm 1955 và gần 6,2% năm 1958). Có 2 tác phẩm tập thể đáng chú ý: 1 là bộ tranh tứ bình Vài nét sinh hoạt công nhân mỏ, bột màu/lụa của 4 hoạ sỹ Hoàng Công Luận, Bùi Quang Ngọc, Lưu Yên và Nguyễn Yên; 2 là bức sơn khắc Tây nguyên bao la, vóc to hết cỡ 1m20x2m40 của 2 anh em Như Hoành- Như Huân.Điêu khắc chỉ gồm toàn thạch cao, vắng các chất liệu đích thực như đá, đồng, gỗ hay đất nung. Một tác phẩm tập thể là phù điêu thạch cao của lớp sinh viên điêu khắc trường MT. Đây là một ẩn số mà chúng tôi không thể tính vào danh sách 18 tác giả điêu khắc MTTQ 1960. Có 3 tác giả vừa vẽ tranh vừa nặn/đúc tượng là Diệp Minh Châu, Nguyễn Phi Hoanh và Huỳnh Công Nhãn (tức Huỳnh Phương Đông sau này). Chỉ có 6 tranh cổ động của 6 tác giả, ít hơn hẳn so với năm 1954 có 14 tranh/14 tác giả, năm 1955 có 9 tranh/10 tác giả và nhất là năm 1958 có 165 tranh/167 tác giả. Tuy vậy, trong 6 tác giả lần này lại có tới 4 danh hoạ là Nguyễn Phan Chánh, Bùi Trang Chước, Nguyễn Trọng Niết và Phan Thông với những bức cổ động chĩa mũi nhọn thẳng vào đế quốc Mỹ và tay sai. Về vấn đề sáng tác, với khoảng cách 2 năm lại đến MTTQ thì ít ai có thể vẽ xong nhiều tranh. May thay, tuyệt đại đa số các cao thủ đều có tác phẩm tham dự kỳ này, chỉ trừ hoạ sỹ Mai Văn Hiến, có lẽ vì ông bận rộn suốt 2 năm trước do phải mang triển lãm tranh Việt Nam bày ở Liên Xô và Đông Âu.
Nguyễn Trọng Hợp, Đón mẹ về, sơn dầu, trong bộ 3 tác phẩm được giải Nhì TLMTTQ 1958
Tuy vậy, vẫn có vài danh hoạ bày được khá nhiều tranh như: Nguyễn Văn Tỵ 8 tranh (3 sơn mài, 2 sơn dầu, 3 màu nước), Trần Văn Cẩn 7 tranh (2 sơn dầu, 1 giấy điệp, 4 ký hoạ), Nguyễn Phan Chánh 7 tranh (6 lụa, 1 cổ động). MTTQ 1960 cũng chứng kiến 2 tác giả lạ mà quen là nhà thơ Quang Dũng (đã có tranh từ MTTQ 1954) với tranh bột màu Trưa mùa gặt và kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh (tốt nghiệp Trường MT Đông Dương năm 1943 - khoa Kiến trúc) với bức sơn dầu Thành cổ Bukhara buổi sáng (vẽ ở Trung Á - LX). Triển lãm MTTQ 1960 có ngoại lệ 2 hoạ sỹ nước ngoài tham dự. Người thứ nhất ta đã biết từ MTTQ 1958 là nữ hoạ sỹ Anh: Mary Harrison, lần này bà chỉ có 1 bức sơn dầu phong cảnh Sang thu, cỡ nhỏ 32x42cm. Người thứ hai là hoạ sỹ Liên Xô A.P. Cuznhetxốp, chuyên gia được cử sang Trường Cao đẳng MTVN giảng dạy phương pháp sáng tác Hiện thực XHCN. Trong thời gian đi thực tế cùng sinh viên, ông từng vẽ trực hoạ biểu diễn cho họ xem (trực hoạ là thế mạnh của trường phái Hiện thực Liên Xô, vì họ rất vững hình hoạ và kỹ thuật sơn dầu cổ điển). Ông đoạt ngay ngôi quán quân về số lượng tại triển lãm 1960: 9 tranh sơn dầu từ cỡ 28x40cm đến cỡ 50x68cm. Về đề tài, ông vẽ các sinh viên, nông dân, người dân tộc, tài xế và 3 phong cảnh Hạ Long, 1 phong cảnh sông Hồng. Theo một số cụ kể lại thì kỹ thuật sơn dầu của Cuznhetxốp miễn chê nhưng hiệu quả sáng tạo và đặc điểm hình thể người Việt thì còn phải bàn.Về Giải thưởng, đúng lúc đang bí tư liệu thì hoạ sỹ Bùi Quang Ngọc từ TP Hồ Chí Minh gửi ra cho chúng tôi Danh sách Giải thưởng MTTQ 1960 đăng trên báo Văn học số 129, ra cuối 1960. Sử liệu này vô cùng quý giá ! Xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ chính xác và đúng lúc của hoạ sỹ BQ Ngọc và xin công bố:
Giải thưởng MTTQ 1960:I/ Giải Nhất. 1/ Hội hoạ: 04 giải trao cho: Trần Văn Cẩn, Nữ dân quân vùng biển, sơn dầu; Cuznhetxốp, Toàn bộ tác phẩm, sơn dầu; Huỳnh Văn Gấm, Năm 40 và Đọc sách, sơn mài; Lê Quốc Lộc, Giữ lấy hoà bình, sơn mài. 2/ Đồ hoạ: 02 giải trao cho: Phan Kế An, Toàn bộ biếm hoạ, mực nho; Hoàng Kiệt, Toàn bộ ký họa, chì than.3/ Điêu khắc: 02 giải trao cho: Trần Văn Lắm, Toàn bộ chân dung, tượng thạch cao; và cho Tập thể sinh viên trường MT, Một cảnh kiến thiết XHCN, đắp nổi thạch cao. 4/ Mỹ nghệ: Trường và xưởng mỹ nghệ (có lẽ là trường MT Công nghiệp). II/ Giải Nhì. 1/ Hội hoạ: 04 giải trao cho: Nguyễn Phan Chánh, Nhóm giữ trẻ, lụa; Trần Đình Thọ, Ra đồng và Thuyền Hồng gai, sơn mài; Quốc Thụ và tập thể, Chào mừng Đại hội Đảng, sơn khắc; Huỳnh Văn Thuận, Hợp tác xã nông nghiệp bậc cao Vĩnh Kim, sơn khắc. 2/ Đồ hoạ: 03 giải trao cho: Nguyễn Bích, Toàn bộ biếm họa, mực nho; Tạ Lựu, Toàn bộ biếm họa, mực nho; Nguyễn Thế Vinh, Toàn bộ ký hoạ và khắc gỗ.3/ Điêu khắc: 02 giải trao cho 2 tượng thạch cao: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây của Đào Văn Can và Đọc báo của Lều Thị Phương. 4/ Mỹ nghệ: 03 giải cho: Tổ sơn quang dầu; Tổ thêu và Nguyễn Văn Y, Toàn bộ gốm. III/ Giải Ba. 1/ Hội hoạ: 19 giải trao cho: Nguyễn Văn Bình, Bản Nậm Nà, sơn mài; Nguyễn Khang, Hành quân ở Tây Bắc trong kháng chiến, sơn mài; Nguyễn Văn Tỵ, Mùa gặt ở Thanh Hoá và Kho than Hồng Gai, sơn dầu; Lê Vinh, Đánh chiếm Hóc Môn, sơn mài; Nguyễn Trọng Cát, Ngư dân, sơn dầu; Hoàng Tích Chù, Chúc thọ Hồ Chủ Tịch, sơn mài; Nguyễn Tiến Chung, Được mùa, sơn mài; Bùi Trang Chước, Vịnh Hạ Long, sơn khắc; Nguyễn Đức Cường, Công trường 9 ở Suối Rút, Hoà Bình, sơn mài; Nguyễn Đỗ Cung, Học hỏi lẫn nhau, sơn dầu; Nguyễn Như Huân và Nguyễn Như Hoành, Tây nguyên bao la, sơn khắc; Vũ Giáng Hương, Hợp tác xã đánh cá về, lụa; Dương Hướng Minh, Tô Vĩnh Diện lấy thân chèn pháo, sơn mài; Lưu Công Nhân, Một buổi cày, sơn dầu; Nguyễn Văn Thiện, Bác đến thăm nhà, sơn dầu; Quang Thọ, Đứa con đầu lòng, sơn dầu; Nguyễn Thụ, Bắn tập, lụa; Nguyễn Sỹ Tốt , Chân dung công nhân mỏ (chiến sĩ thi đua), sơn dầu; Vương Trình, Mỗi người trồng một năm 2 cây, sơn dầu.2/ Đồ hoạ: 07 giải trao cho: Đường Ngọc Cảnh, Toàn bộ khắc gỗ; Phan Văn Doãn, Người xã Pu Ten sống lại rồi, tranh truyện; Ngô Tôn Đệ, Toàn bộ ký hoạ, mực nho; Nguyễn Trọng Hợp, Du kích miền núi, khắc gỗ; Lê Nguyên Lợi, Toàn bộ khắc gỗ; Hoàng Công Luận- Bùi Quang Ngọc- Lưu Yên- Nguyễn Yên, Vài nét sinh hoạt của công nhân mỏ, tranh tường (?); Hoàng Tuấn Nhã, Toàn bộ biếm hoạ, mực nho. 3/ Điêu khắc: 03 giải trao cho 3 tượng thạch cao: Anh thợ học nghề của Nguyễn Hải; Bổ túc văn hoá của Nguyễn Phú Hiếu; Xã viên mới của Lê Công Thành. 4/ Mỹ nghệ: Tổ gốm (?).III/ Giải Khuyến Khích. 1/ Hội hoạ: 16 giải trao cho: Siu Dơơng, Tưới rau, bột màu; Nguyễn Dung, Ánh sáng cách mạng trên rẻo cao, sơn dầu; Đào Đức, Vịnh Hạ Long bên bến Hồng Gai, sơn dầu; Văn Giáo, Một hình ảnh trong chiến dịch Điện Biên Phủ, bột màu; Bùi Tấn Hưng, Nghề phụ, sơn dầu; Ngọc Linh, Hội mùa xuân trên đỉnh núi, lụa; Trần Viết Lý, Chúc các anh đi…, sơn dầu; Vi Kiến Minh, Sương sớm trên cầu Rá Riềng, bột màu; Phạm Thị Ngọc Nga, Xóm Giang mô (Hoà Bình), lụa; Trần Thị Thanh Ngọc, Đón con, lụa; Trịnh Phòng, Đột nhập trường bay Cát bi, lụa; Hồ Quảng, Vác xe đạp thồ vượt đèo chiến dịch Điện Biên Phủ, sơn dầu; Phạm Viết Song, Hoàng Lệ Kha ra pháp trường, sơn dầu; Nguyễn Văn Thiệu, Xuân hồ Gươm, sơn khắc; Giang Tô và tập thể, Chào mừng Đại hội Đảng, sơn khắc; Công Văn Trung, Công trình khai thác mỏ thiếc Cao Bằng, lụa.2/ Đồ hoạ: 01 giải trao cho: Ái Nhi và Bác Siu, Gà cánh tiên, cắt giấy màu.3/ Điêu khắc: 05 giải trao cho 5 tượng thạch cao: Bom ba càng củaVăn Hoè; Chiếc khăn rằn của Nguyễn Văn Lý; Hạt giống đầu mùa của Huỳnh Công Nhãn; Tàu về ga an toàn của Võ Văn Tấn; Ngọn cờ đầu trong thi đua của Lê Thược. Như vậy có tới 73 giải, chiếm gần 1/4 tổng số tác phẩm. Có lẽ đây là kỷ lục VN về số lượng giải thưởng của một triển lãm MT !Ngoài ra, MTTQ 1960 còn có những tác phẩm chất lượng cao như: Góp thóc vào kho, lụa của Tạ Thúc Bình; Bụi nứa miền xuôi, sơn mài của Phan Kế An; Kéo lưới, sơn mài của Kim Đồng; Một điệu múa cổ, sơn dầu của Nguyễn Tư Nghiêm, Giờ học tâp, sơn mài của Nguyễn Sáng, Phơi mảng, bột màu của Văn Xương… Xin tiểu kết phần này bằng một ngoại lệ thú vị: đó là Danh sách tác phẩm đã tham gia triển lãm 12 nước XHCN ở Matxcơva (1958- 1959) và triển lãm tại các nước XHCN Đông Âu (1959- 1960) được in ở cuối vựng tập. Danh sách cũng chia làm 3 phần Hội hoạ, tranh Cổ động và Điêu khắc. Chỉ có 6 cổ động, 1 tượng đá, 9 tượng thạch cao, 4 đắp nổi nhưng có tới 194 tranh, gồm 27 sơn mài, 1 sơn khắc, 16 sơn dầu, 24 lụa, 24 bột màu, 17 màu nước, 8 khắc gỗ, 1 phác thảo khắc gỗ, 6 phấn màu, 1 tứ bình, 1 bình phong, 1 bộ tranh truyện và 67 ký hoạ (tranh giấy và lụa có số lượng áp đảo vì dễ vận chuyển).
Diệp Minh Châu, Võ Thị Sáu trước quân thù, tượng thạch cao, 1958, Giải Nhất MTTQ 1958
Bìa vựng tập MTTQ 1960, in tranh sơn dầu Nữ dân quân vùng biển của Trần Văn Cẩn, Giải Nhất MTTQ 1960
9/ Triển lãm MTTQ lần thứ chín
1962, triển lãm cuối cùng trước khi gián đoạn đến tận 1976. Khai mạc ngày 17/10/1962 tại 2 địa điểm: 45 Tràng Tiền và 93 Đinh Tiên Hoàng, Hà Nội. Đồng tổ chức: Bộ Văn hóa và Hội Mỹ thuật VN. Hồ Chủ tịch đã đến xem triển lãm ngày 24/10/1962.Tổng số tác phẩm: 445 tranh, tượng và tác phẩm mỹ nghệ của 182 tác giả. Ngoại lệ có 03 tác giả nước ngoài tham dự là Mary Harryson (Anh, đã dẫn từ 1958), Kuznhetxop (chuyên gia sơn dầu LX) và Ghivi (chuyên gia điêu khắc LX).Đây là 1 trong 3 triển lãm (1945, 1948, 1962) mà người viết chưa tìm thấy vựng tập. Nguồn tài liệu chủ yếu mà chúng tôi dựa vào là: 1/ Tin tức trên báo Nhân dân cuối năm 1962; 2/ Lý lịch nghệ thuật tóm tắt của hội viên trong Kỷ yếu của Hội MT, đồng thời hỏi thêm các cụ (dù đã hơn 50 năm, các cụ khó mà nhớ chuẩn). Do đó, những gì được trình bày trong phần này sẽ đành sơ lược. Sau này, nếu tìm được Vựng tập MTTQ 1962, chúng tôi sẽ tiếp tục công bố. Về Giải thưởng, chỉ tạm thống kê được có 01 giải Nhất là bức sơn mài Mùa đông sắp đến (hay Mùa thu đan áo) của Trần Văn Cẩn. Có 01 giải Nhì là: Hành quân qua suối, sơn mài của Nguyễn Khang. Giải Ba, theo kỷ yếu, chỉ tìm được duy nhất 1 giải dành cho Tranh dân gian kiểu mới (không rõ tên tranh) của nghệ nhân Nguyễn Đăng Sần.
Nguyễn Như Hoành và Nguyễn Như Huân (Thái Hà), Tây Nguyên bao la, sơn khắc, 1960, Giải Ba MTTQ 1960
Từ 5/8/1964 máy bay Mỹ bắt đầu ném bom miền Bắc, dân thành phố sơ tán về nông thôn nên những sinh hoạt văn hoá nghệ thuật lớn tại Thủ đô bị đình hoãn. Chúng ta phải đợi 14 năm, đến tận 1976, sau ngày thống nhất đất nước mới lại có triển lãm MTTQ lần thứ 10. Nhận xét sơ bộ: chỉ có 9 năm từ 1954 đến 1962 mà có tới 5 triển lãm MTTQ! Các họa sỹ hăng hái vẽ nhiều tranh cũng là điều dễ hiểu: Kháng chiến vừa thắng lợi, miền Bắc đã hòa bình, tình quân dân thắm thiết, lòng người vui phơi phới… khá nhiều họa sỹ được cấp họa phẩm… có một nhóm còn được ăn lương sáng tác, cứ ở nhà vẽ tranh, hàng tháng đến Hội MT lĩnh lương trong danh sách Tổ Sáng tác… Tuy nhiên, để có được liên tiếp 5 kỳ triển lãm ở cấp độ toàn quốc thì quả thật không đơn giản nếu phải tính đến Công tác Tổ chức: địa điểm, phòng ốc, tuyên truyền, điện- nước, khung tranh và bục bệ (hồi ấy bao cấp hoàn toàn), tiền công cho Ban Tổ chức kiêm Hội đồng Nghệ thuật, cho bộ phận treo tranh- bày tượng, cho sơn quét vôi ve, cho ban bảo vệ suốt 1 tháng ròng, cho nhuận treo.v.v… Các họa sỹ không thể góp được tổng số tiền lớn đến vậy, các Hội Văn nghệ hay MT phi sản xuất cũng không tự có được kinh phí đó. Chỉ có ngân sách quốc gia mới có thể bao cấp đầy đủ cho triển lãm ở tầm quốc gia như thế này… Ngược lại, thành quả mà các kiệt tác sơn mài, sơn dầu, sơn khắc, lụa, khắc gỗ, bột màu, màu nước… mà các danh họa mang lại cũng rất xứng đáng làm vẻ vang cho Văn hóa Nghệ thuật VN cả về danh hiệu lẫn giá trị hiện kim.
Tài liệu tham khảo
dùng cho phần từ MTTQ 1955 đến MTTQ 1962: 1. Vựng tập các Triển lãm MTTQ 1955, 1958, 1960. 2. Một số tin tức về triển lãm MTTQ 1962 trên báo Nhân dân.3. Áp phích Triển lãm MTTQ 1955 (sưu tập của nữ họa sỹ Bình Minh)4. 50 năm Hội Mỹ thuật VN (1957- 2007) NXB Mỹ thuật - Hà Nội - 2007. 5. Kỷ yếu hội viên Nghệ sỹ tạo hình Việt Nam Hiện đại NXBMT 2009.6. Tranh dân gian Đông Hồ, tác giả An Chương, NXB MT 20117. Danh sách Giải thưởng MTTQ 1960, báo Văn học số 129, cuối năm 1960 (tài liệu của họa sỹ Bùi Quang Ngọc).8. Hỏi chuyện các hoạ sỹ Huỳnh Văn Thuận, Phan Kế An, Trịnh Phòng, Ngô Mạnh Lân, Thục Phi, Trọng Cát, Lê Lam, Trịnh Quốc Thụ, Phạm Công Thành, Trần Huy Oánh, Bùi Quang Ngọc, Tô Ngọc Thành, Ngô Thành Nhân…
Đ.H
(Bài đăng trên Tạp chí Mỹ thuật Nhiếp ảnh số tháng 5/2015)