Nghệ sỹ tạo hình các dân tộc thiểu số Việt Nam
Việt Nam có 54 dân tộc, mỗi dân tộc thường mang những sắc thái, thẩm mỹ riêng. Tuy nhiên, họ cũng có nét tương đồng về đời sống vật chất cũng như tinh thần. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, cộng đồng các dân tộc Việt Nam luôn kề vai sát cánh, gắn bó máu thịt bên nhau trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, thiên tai địch họa và xây dựng đất nước. Văn hóa dân tộc thiểu số góp phần đáng kể vào sự hình thành nền văn minh chung và di sản văn hóa truyền thống của cộng đồng dân tộc Việt Nam với vẻ đẹp chất phác, thô mộc, nguyên sơ, được bảo tồn lâu dài trong lịch sử. Mặt khác, trong quá trình chung sống giao lưu, cũng diễn ra hiện tượng giao thoa, hòa nhập và tích hợp giữa các dân tộc thiểu số với đa số, giữa các dân tộc thiểu số với nhau.
Vi Kiến Minh, Giao Lương, lụa, 1980
Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trước đây sống chủ yếu ở vùng trung du và miền núi, có dân tộc định cư đã hàng ngàn năm những cũng có dân tộc mới định cư mấy trăm năm. Các dân tộc đều tạo cho mình bản sắc văn hóa riêng trong đó có mỹ thuật. Tuy nhiên, do nền kinh tế trước đây chủ yếu là săn bắn, hái lượm... tự cung tự cấp, vì vậy mỹ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam được thể hiện chủ yếu trên kiến trúc, điêu khắc, trang phục, đồ trang sức và đồ gốm. Ở bài viết này, do không thể đi vào mỹ thuật của từng dân tộc, vì vậy chúng tôi chỉ nêu lên những đặc trưng mỹ thuật tiêu biểu của một số dân tộc Việt Nam.
Về các nghệ sỹ tạo hình dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại
Về mặt nghệ thuật tạo hình, các dân tộc thiểu số Việt Nam tạo nên những đặc trưng riêng, ghi dấu ấn trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, trong suốt hàng nghìn năm, các tác phẩm mỹ thuật của các dân tộc thiểu số vẫn mang tính chất dân gian. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 chúng ta cũng chưa thấy một nghệ sỹ tạo hình dân tộc nào.
Đinh Rú, Cầu mưa, gỗ, 1988
Trong kháng chiến chống Pháp, mặc dù hoàn cảnh rất khó khăn nhưng Đảng và Nhà nước ta vẫn mở nhiều lớp mỹ thuật ngắn hạn và đặc biệt là mở Trường Mỹ thuật Kháng chiến ở Việt Bắc với 22 học viên, trong đó đã có Vi Văn Bích (Ngọc Linh), người dân tộc Tày được đào tạo và sau này trở thành một họa sỹ có nhiều đóng góp cho sự nghiệp Mỹ thuật Việt Nam hiện đại.
Hứa Tử Hoài, Song Sly, gỗ, 1983
Sự nghiệp đào tạo các nghệ sỹ tạo hình dân tộc thiểu số được đặc biệt quan tâm từ năm 1954, sau ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng. Nhiều thanh niên dân tộc thiểu số có năng khiếu về mỹ thuật đã được chọn đặc cách để về học tập tại các trường mỹ thuật. Tại Trường Mỹ thuật Việt Nam, đào tạo các ngành Hội họa và Điêu khắc với những khóa học đầu tiên đào tạo hệ Trung cấp và những năm tiếp theo đào tạo hệ Cao đẳng và Đại học đã có các học sinh người dân tộc thiểu số Tày, Nùng, Thái, Khơ Mú, Êđê, Hoa, Mông, Vân Kiều, Dáy... như Sêu Y Nguyên, Sưu Dơn, Sưa A Lun, Vi Kiến Minh, Nông Công Thắng, Nông Văn Cương, Tống Thị Minh, Đinh Phong Hênh, Mê Koan Sơn, Hà Cắm Dì, Bế Ngọc Mông, P Rắc, Tống Giang Minh, Hà Ảnh, Kà Kha Sam, Lò Văn Pấng, Ma Ngọc Sương, Đinh Văn Rú, Mùa A Lữ, Dương Thị Nội, Bế Sỹ Côn, Vi Quốc Hiệp, Vi Thị Lệ, Nông Văn Lược, Bế Thế Quốc, Trương Mai San, Lò An Quang, Cẩm Thị Xuân, Hồ Nia, Làu Mai Phoóng, Lục A Tả, Mã Ngọc Vinh, Thái Đắc Phong, Lục Đình Sìn, Mô Lô Kai, Hòa Uyên, Mô Lô Hưu, Vi Văn Sách, Lợi Hoan Trang, Hoàng Quốc Kứu, Xu Man, Đinh Rú, Siu Phia, Sêu Y Lun, Chu Thị Thánh...v.v
Chu Thị Thánh, Hội mùa xuân, lụa 1979
Tại Trường Mỹ thuật Công nghiệp, từ năm 1959, khóa học Trung cấp đầu tiên đã cử cán bộ lên các vùng núi Tây Bắc và Việt Bắc để tuyển chọn đặc cách các thanh niên có năng khiếu mỹ thuật về học tại nhà trường ở các khoa điêu khắc và dệt thổ cẩm, cho dù trình độ văn hóa của họ có người chỉ dừng ở lớp 2, lớp 3. Ta có thể kể tới Hứa Tử Hoài, Hoàng Uyên, Phan Thị Hải, Hồ Uông...
Hầu hết các học sinh tốt nghiệp đều trở về các địa phương, quê hương của mình hoạt động mỹ thuật trong các sở văn hóa hoặc tham gia giảng dạy tại các trường trung cấp mỹ thuật. Một số họa sỹ ở miền Trung và Tây Nguyên đã trở về chiến trường tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước như Xu Man, Đinh Rú, Siu Phia, Sêu Y Lun...
Hà Cắm Dì, Mẹ dạy con viết chữ Bác Hồ, lụa, 1993
Sau ngày đất nước thống nhất, các Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam, Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội, Đại học Nghệ thuật Huế, Đại học Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh và các trường trung cấp, cao đẳng văn hóa nghệ thuật các tỉnh thành trong cả nước trong cả nước đã đào tạo nhiều họa sỹ, nhà điêu khắc các dân tộc thiểu số. Nhiều người trong số họ sau khi ra trường đã có nhiều sáng tác tham gia các Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc, Triển lãm Mỹ thuật Khu vực... và giành được những giải thưởng xứng đáng, được giới mỹ thuật biết tới như Đằng Năng Thọ, Chế Thị Kim Trung (dân tộc Chăm); Đinh Thị Thắm Poong (dân tộc Mường); Ngân Chài, Lò An Việt, Tòng Văn Phin (dân tộc Thái); Thạch Bồi, Lim Khim Katy, Lý Lết (dân tộc Khmer); Vi Quốc Hiệp, Phan Hùng, Hà Thị Vân, Nông Thị Minh Tâm (dân tộc Tày);...
Trong quá trình hoạt động, nhiều họa sỹ nhà điêu khắc đã trở thành Hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam, đã có những đóng góp cho sự phát triển nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Tính đến nay, Hội Mỹ thuật Việt Nam đã có 85 Hội viên là người của 16 dân tộc, bao gồm Tày, Hoa, Thái, Nùng, Mường, Khơ Mú, San Dìu, Dáy, Cao Lan, Bana, Êđê, Xê Đăng, Cà Tu, Chăm, Khmer, Vân Kiều. Ngoài 10 Hội viên đã mất như Hứa Tử Hoài, Xu Man, Vi Kiến Minh, Vi Kim Ngọc, Nông Công Thắng, Hoàng Thị Chi, Dương Thị Nội, Phan Thị Hải, Trương Siêu Quảng, Hồ Uông... hiện còn 73 Hội viên đang sinh hoạt tại các Chi hội ở 23 tỉnh, thành trong cả nước.
Y Nhi Ksor, Đi hội, sơn dầu, 2000
Ta có thể kể tới: Dân tộc Tày có Ngọc Linh (Vi Văn Bích), Vi Kiến Minh, Hoàng Đức Toàn, Vi Kiến Thành, Hoàng Uyên, Nguyễn Phúc Dự, Hoàng Thị Chi, Vi Quốc Hiệp, Phan Hùng, Nguyễn Gia Lâm, Trương Tiến Lợi, Bế Ngọc Mông, Vi Kim Ngọc, Dương Thị Nội, Nông Thị Minh Tâm, Nông Công Thắng, Hà Thị Vân, Nông Hoàng Chiến, Nông Minh Tân, Trương Văn Linh, Đoàn Thị Bích Thùy, Lương Thị Hiện, Đàm Thế Nam, Trình Đức Thương, Nông Tiến Dũng, Hoàng Văn Điểm, Vy Thị Hương Ly; Dân tộc Hoa có Huỳnh Tuấn Bá, Quan Lạc Cương, Quách Việt Hà, Trần Văn Hải, Li Sin Ho, La Hon, Thái Tuấn Hoàng, Lục Hà Kim, La Như Lân, Lý Ngọc Linh, Trương Hớn Minh, Lý Trung Lương, Trương Hán Minh, Trịnh Văn Mỹ, Lý Khắc Nhu, Diệc Nuỗi, Thái Đắc Phong, Liêu Tử Phong, Huỳnh Phong, Lưu Mai Phương, Cơ Chu Pin, Trương Siêu Quảng, La Viết Sinh, Lợi Hoan Trang, Văn Tích Túc, Văn Minh Chìu; Dân tộc Thái có Ngân Chài, Tòng Văn Phin, Lò An Quang, Lò An Việt; Dân tộc Nùng có Hà Cắm Dì, Hứa Tử Hoài, Chu Thị Thánh, Cao Thanh Sơn, Âu Việt Sơn, Chu Thị Thiều, Dương Văn Chung, Trương Mạnh Sáng, Dân tộc Vân Kiều có Hồ Uông; Dân tộc Mường có Đinh Thị Thắm Poong, Nguyễn Văn Điệu, Hà Anh Tuấn, Bùi Văn Đạo; Dân tộc Khơ Mú có Cà Kha Sam; Dân tộc San Dìu có Tống Giang Minh; Dân tộc Dáy có Trương Thị Mai San; Dân tộc Cao Lan có Đào Thị Tiên; Dân tộc Bana có Xu Man; Dân tộc Êđê có Y Nhi Ksor; Dân tộc Xê Đăng có A Nhú; Dân tộc Cà Tu có Mô Lô Kai; Dân tộc Chăm có Đinh Rú, Đằng Năng Thọ, Chế Thị Kim Trung; Dân tộc Khmer có Thạch Bồi, Lim Khim Katy, Lý Lết, Trần Hồng Lâm.
Đội ngũ các nghệ sỹ tạo hình dân tộc thiểu số hiện nay rất đông đảo, nhưng chưa có một cơ quan tổ chức nào tập hợp được đầy đủ danh sách, vì vậy chúng tôi chỉ có thể nêu tên ở phần trên những nghệ sỹ tạo hình là Hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam.
Thành tựu và những đề xuất
Nghệ sỹ tạo hình các dân tộc thiểu số hiện nay đã trở thành một đội ngũ đông đảo trong giới Mỹ thuật Việt Nam, được đào tạo bài bản qua các trường nghệ thuật ngày càng đông đảo với nhiều dân tộc khác nhau, được tập hợp trong các Hội Văn học Nghệ thuật các tỉnh thành trong cả nước, đặc biệt là Hội Mỹ thuật Việt Nam, Hội Văn học các Dân tộc thiểu số. Nhiều họa sỹ đã thành danh, có nhiều đóng góp cho sự phát triển của nền Mỹ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Ngoài một số không nhiều các nghệ sỹ tạo hình dân tộc thiểu số sau khi tốt nghiệp ở các trường ở lại làm việc tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh thì hầu hết đã trở về địa phương. Với sự nỗ lực và tài năng của mình, họ không những đã đóng góp cho sự phát triển của văn hóa nghệ thuật mà còn là những nhân tố đầu tàu thúc đẩy sự phát triển mỹ thuật hiện đại của các tỉnh thành, vùng sâu vùng xa, phát triển nghệ thuật tạo hình tiến tới một mặt bằng chung mỹ thuật trong cả nước. Trong những năm qua, với 21 Triển lãm Mỹ thuật Khu vực do Hội Mỹ thuật Việt Nam phối hợp với các tỉnh thành tổ chức, đã tạo điều kiện thúc đẩy sáng tác và hình thành những tác giả các dân tộc thiểu số, nhiều người trong số họ không những có tác phẩm trưng bày mà còn giành được những giải thưởng xứng đáng, tên tuổi của họ được biết tới rộng rãi trong cả nước mà chúng tôi đã nêu một phần những tên tuổi đó ở phần trên.
Chế Kim Chung, Miền Nam trong trái tim Bác, sơn dầu, 2015
Bốn họa sỹ và nhà điêu khắc người dân tộc thiểu số đã được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật: nhà điêu khắc Hứa Tử Hoài dân tộc Nùng (năm 2001), nhà điêu khắc Đinh Rú dân tộc Chăm (năm 2007), họa sỹ Lò An Quang dân tộc Thái (năm 2007), họa sỹ Xu Man dân tộc Êđê (năm 2012). Họa sỹ Ngọc Linh (Vi Văn Bích) dân tộc Tày được phong Nghệ sỹ Ưu tú ngành Mỹ thuật Điện ảnh...
Nhiều họa sỹ, nhà điêu khắc có tác phẩm đã giành được những giải thưởng xứng đáng tại các Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc, Triển lãm 10 năm Điêu khắc Toàn quốc, Triển lãm đề tài Lực Lượng vũ trang và Chiến tranh cách mạng, Triển lãm Mỹ thuật Khu vực...
Nhiều họa sỹ dân tộc thiểu số ngoài hoạt động chuyên môn còn được tín nhiệm giao giữ những trọng trách lãnh đạo mỹ thuật, các Hội Văn học Nghệ thuật. Ta có thể kể tới các họa sỹ Hoàng Đức Toàn, Vi Kiến Thành là Cục trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm; nhiều họa sỹ là Chủ tịch, Phó Chủ tịch các Hội Văn học Nghệ thuật, Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng các trường Cao đẳng, Trung cấp Văn học Nghệ thuật các tỉnh thành.
Đinh Thị Thắm Poong, Phụ nữ H'Mông, giấy dó, 1999
Trong những năm đổi mới, mặc dù Đảng, Nhà nước và các Hội Văn học nghệ thuật rất quan tâm đến sự phát triển văn học hghệ thuật ở các tỉnh thành, đặc biệt là các vùng dân tộc thiểu số, phần lớn các nghệ sỹ tạo hình các dân tộc thiểu số trở về địa phương sinh sống và công tác đều gặp những khó khăn chung, đó là thiếu thông tin, thiếu không khí sáng tác, thiếu điều kiện, cơ sở vật chất để sáng tác, đời sống vật chất còn nhiều khó khăn. Vì vậy, cho dù đã hết sức cố gắng nhưng các vấn đề đó cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát huy năng lực sáng tạo cũng như các điều kiện để tham gia các triển lãm thường xuyên, đặc biệt là các triển lãm lớn. Vì vậy, chúng ta cần:
- Có sự phối hợp nhiều hơn nữa các liên kết hoạt động giữa Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam, Hội Mỹ thuật Việt Nam với các Hội Văn học Nghệ thuật các địa phương ở các vùng Tây Bắc - Việt Bắc, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ - nơi tập trung nhiều các nghệ sỹ tạo hình dân tộc thiểu số.
- Cần quan tâm hỗ trợ sáng tác thông qua việc tổ chức nhiều trại sáng tác dành riêng cho các nghệ sỹ tạo hình dân tộc thiểu số. Đặc biệt là các trại sáng tác của các dân tộc ở nhiều vùng miền khác nhau.
- Ngoài các triển lãm chung định kỳ thường niên, chúng ta cần tổ chức những triển lãm mỹ thuật riêng cho các nghệ sỹ tạo hình dân tộc thiểu số theo định kỳ trong cả nước hoặc triển lãm các tác phẩm của các nghệ sỹ theo vùng miền nhưng được giới thiệu ở nhiều địa phương khác nhau.
- Quan tâm đến việc giúp đỡ các nghệ sỹ điều kiện làm việc, đặc biệt là việc cung cấp các nguyên vật liệu phục vụ sáng tác bởi hiện nay nhiều tỉnh miền núi vẫn thiếu các cửa hàng cung cấp họa phẩm như ở Hà Nội hoặc TP. Hồ Chí Minh, do đó các nghệ sỹ thường thiếu thốn các nguyên vật liệu cần thiết tối thiểu cho sáng tác.
- Các tỉnh, thành sớm có các bảo tàng mỹ thuật không những làm phong phú đời sống văn hóa, góp phần vào phát triển du lịch mà còn là nơi lưu trữ các tác phẩm của các nghệ sỹ tạo hình, trong đó có nghệ sỹ tạo hình các dân tộc thiểu số.
- Tạo điều kiện để các nghệ sỹ bán được tác phẩm từ đó có nguồn thu để tiếp tục sáng tạo.
- Để nắm vững đội ngũ nghệ sỹ tạo hình dân tộc thiểu số trong cả nước, chúng tôi đề nghị Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc thiểu số phối hợp với các Hội Văn học Nghệ thuật địa phương điều tra, tổng hợp danh sách các nghệ sỹ tạo hình là người dân tộc thiểu số đã tốt nghiệp các trường mỹ thuật trong cả nước và các nghệ sỹ tạo hình dân tộc thiểu số khác đang là Hội viên của các Hội.
Với sự phát triển mạnh mẽ về đội ngũ cũng như năng lực sáng tạo của các nghệ sỹ tạo hình các dân tộc thiểu số, chúng ta tin rằng các nghệ sỹ sẽ có nhiều đóng góp hơn nữa cho sự nghiệp phát triển mỹ thuật Việt Nam hiện đại trong thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
T.K.C