Tự tin với nền văn hóa dân tộc
Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam vừa tròn nửa thế kỷ. Những người có công đầu xây dựng hầu hết đã qua đời. Số ít ỏi còn lại luôn mang nặng ký ức “Một thời để nhớ”. Như một gia đình đông đúc, bao con người đã không tiếc công sức cống hiến tài năng, tâm trí cho ngôi nhà chung của nghệ thuật dân tộc. Cuốn sử bề thế đã cơ bản hoàn thành dưới dạng những tác phẩm và hiện vật nghệ thuật được trưng bày có hệ thống chuẩn xác. Mỹ thuật truyền thống Việt Nam xưa và nay hiện lên rõ nét, giàu ấn tượng, bản sắc, hồn cốt Việt.Ai cũng biết trước Cách Mạng Tháng 8/1945, lĩnh vực nghiên cứu văn hóa - nghệ thuật gần như bộ máy thực dân thống trị độc quyền. Rất ít người Việt được tham gia, trừ số ít công chức làm công ăn lương. Tổ chức chính của nó là “Trường Viễn Đông (Bắc Cổ) Pháp” (Ecole Francaise d’ Extrême - Orient. Viết tắt là EFEO).
Đầu tượng Kim Cương, thế kỷ 11 -12, chùa Phật Tích, Bắc Ninh
Nhiều người thường gọi là “Trường Bác Cổ, Viện Bác Cổ”. Dưới quyền bảo trợ và điều hành bộ máy là một tập hợp các chuyên gia nhiều ngành - như khảo cổ học, lịch sử, nghệ thuật, dân tộc học, ngôn ngữ, tôn giáo,… nhiều quốc tịch (Pháp, Đức, Hà Lan, Áo, Thụy Điển, Nga,...) đến Việt Nam và Đông Dương. Để chuyển tải thông tin kết quả nghiên cứu, nó có một Bảo tàng tổng hợp mang tên nhà khảo cổ học người Pháp Louis Finot (nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia). Bảo tàng trưng bày hiện vật văn hóa - nghệ thuật Việt Nam và Đông Dương. Ngoài ra còn dành một không gian trưng bày hiện vật nghệ thuật - văn hóa một số nước phụ cận - như Trung Quốc, Nhật Bản, Indonesia, Philippine,… Cùng với Bảo tàng, nó còn phát hành tạp chí và kỷ yếu định kỳ đăng tải các báo cáo khoa học, các luận đề của chuyên gia các nghành. Viết tắt là BEFEO.Về khách quan, họ đã có những đóng góp nhất định cho khoa học, gợi mở được nhiều vấn đề cho nghiên cứu. Nhưng về chủ quan, nó cũng để lại không ít những sai lầm, ngộ nhận về văn hóa, lịch sử, nghệ thuật Việt Nam và Đông Dương nói chung. Nặng về thuyết Thiên di và mang sẵn định kiến, đầu óc học giả thực dân với các nước “nhược tiểu bị trị”, họ cho rằng “văn hóa - nghệ thuật Việt Nam và Đông Dương là kết quả của quá trình Thiên di vay mượn từ hai nền văn hóa lớn - Ấn Độ Phương Nam và Trung Hoa Phương Bắc”. Ngoài ra còn chịu ảnh hưởng cả các nền văn hóa biên viễn xa xôi nữa, kể cả với phương Tây và Trung Đông. Cái tên họ đặt cho xứ Đông Dương gồm hai đại từ ghép của hai nước lớn là “Indo - Chine”hợp lại, cũng theo nghĩa ấy. Nghĩa là Việt Nam và Đông Dương không có nền văn hóa bản địa chính quy, chính thống.
Chạm khắc trang trí, thế kỷ 17, đình làng Hưng Lộc, Nam Định. Ảnh: Trần Trung Hiếu
Chỉ có văn hóa Thiên Di vay mượn mà thôi. Vì vậy, O.Janse, nhà khảo cổ học, đã viết luận đề “Việt Nam ngã tư đường các dân tộc và các nền văn minh”(1) (tạp chí Pháp - Á. Số 165. Tokyo 1961). Hay B. P. Groslier cũng đưa ra luận đề tương tự: “Đông Dương ngã tư đường nghệ thuật”(2). (Paris 1961). Xuất phát từ cái nhìn kì thị ấy, họ cho rằng văn hóa Đông Sơn thời đồ đồng cực kỳ thịnh của Việt Nam cũng là kết quả của sự Thiên di từ nghệ thuật Tần - Hán Trung Hoa (thế kỷ III TCN). Hoặc đẩy lên xa hơn là thời Chiến Quốc (475 - 221 TCN) Trung Hoa.Giờ đây, hơn nửa thế kỷ trôi qua, cùng với sự trưởng thành của ngành khảo cổ học và ngành nghiên cứu mỹ thuật Việt Nam, câu trả lời đã rõ. Hàng trăm di chỉ thời đại đồ đồng và sơ kỳ đồ sắt cũng như đồ đá (cũ và mới) đã được khai quật. Hàng vạn di vật đã được lấy lên từ lòng đất ngay chính địa bàn Đông Sơn của nền văn minh Sông Mã (Thanh Hóa) và nền văn minh Sông Hồng (Bắc Bộ) từ những năm 60 thế kỷ XX trở đi. Nó không còn bó hẹp trong phạm vi Đông Sơn. Nó đã được đẩy lên rất sớm, phát triển liên tục qua 4 giai đoạn: Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn. Kéo dài suốt 20 thế kỷ, từ thiên niên kỷ II TCN đến một vài thế kỷ sau CN. Tính chất bản địa Việt Nam đã được khẳng định vững chắc. Không thể tranh cãiVới mỹ thuật thời Phong kiến dân tộc độc lập tự cường Việt Nam, nổi bật là trung tâm mỹ thuật Phập Tích, Bắc Ninh và Thăng Long thời Lý, cũng bị học giả - kiến trúc sư người Pháp, giáo sư lịch sử mỹ thuật Trường Mỹ thuật Đông Dương, người chịu trách nhiệm trùng tu các di tích cổ Bắc Kỳ là Louis Bezacier đã gán cho nghệ thuật thời Lý của Việt Nam là nghệ thuật Đại La, đời Đường Trung Hoa (618 - 907): “Đó là công trình do quan nguyên soái Cao Biền người Tàu xây dựng sau khi ngài đã dẹp xong quân Nam Chiếu”, Bezacier viết. Mặc dù chính ông ta đã khai quật nền móng ngôi bảo tháp chùa Phật Tích, đã thu lượm được cả những viên gạch còn ghi rõ niên đại xây dựng công trình: “Lý Gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo” - tức xây dựng vào thời vua Lý Thánh Tông 1057.
Tượng gốm, thế kỷ 16
Nguyễn Phan Chánh, Chơi ô ăn quan, lụa
Đó là chưa kể những hình Rồng tạc trên đá và đất nung tìm thấy ở hai làng Ngọc Hà, Vĩnh Phúc - kinh đô Thăng Long thời Lý (cũng như những con rồng đá và đất nung sau này khai quật được ở di chỉ Thăng Long); hoặc những con rồng tạc trên bia đá chùa Long Đọi (Hà Nam) tạo vào thời Lý Nhân Tôn, niên hiệu Xương Phù Duệ Võ thứ hai 1121. Tất cả đều có phong cách mỹ thuật Lý.Lịch sử bị vu cáo và bóp méo. Lòng tự tin, tự hào dân tộc bị xúc phạm tổn thương. Họa sỹ, học giả, nhà nghiên cứu mỹ thuật Nguyễn Đỗ Cung qua bài viết “Mỹ thuật Đại La hay mỹ thuật Lý ?” (Báo Thanh Nghị. Số 96. Ngày 16/12/1944) đã kịp thời lên tiếng phản bác Bezacier. Bài báo đã gây được tiếng vang và ảnh hưởng sâu rộng trong bạn đọc - đặc biệt với giới nghệ sỹ trí thức của Trường Mỹ thuật Đông Dương, ngay nơi Bezacier giảng dạy.
Với mỹ thuật cận hiện đại, điển hình là Evariste Joncheres, nhà điêu khắc Pháp với danh nghĩa tân Giám đốc thay ông Tardieu vừa quá cố (1937), đã ngạo mạn trả lời phỏng vấn báo Opinion rằng: “Tôi đi Hà Nội chuyến này chỉ muốn đào tạo ra những thợ mỹ thuật, chứ không phải đào tạo các nghệ sỹ.”Họa sỹ - nhà nghiên cứu Nguyễn Đỗ Cung đã thẳng thừng đáp lại lời tuyên bố kẻ cả của Joncheres: “Ông là một điêu khắc gia, tôi mời ông chịu khó qua xem những đồ điêu khắc ở chùa Dâu, đình Đình Bảng, chùa Cói, chùa Keo hay đình Chu Quyến và mời ông so sánh những nét chạm có từ thời Lê đó của Việt Nam với nét chạm từ cổ chí kim của Nhật Bản hay những tác phẩm của ông, xem đằng nào thâm trầm gân guốc và đặc sắc hơn, rồi lúc đó sẽ thong thả nghe ông tuyên bố lại. Đó là chưa kể Đền AngKor (Campuchia) cũng của người Đông Dương đấy.” Cũng như bài phản đối Bezacier về mỹ thuật Đại La trên báo Thanh Nghị, bài phản đối Joncheres trên báo Ngày Nay (số 144. Ngày 7/1/1939) cũng có tiếng vang, được đông đảo bạn đọc và giới nghệ sỹ trí thức hưởng ứng. Kết quả đã trả lời Joncheres thật đích đáng. Trái với Joncheres, ông Giám đốc họa sỹ tiền nhiệm Tardieu sinh thời đã khẳng định với nhà cầm quyền thực dân Pháp rằng: “Người Annam hoàn toàn có năng khiếu để trở thành những nghệ sỹ chân chính và họ có quyền được như vậy.”Ngót thế kỷ tiếp xúc với nghệ thuật Phương Tây, kể từ ngày Trường Mỹ thuật Đông Dương đến nay, bao nhiêu thế hệ “Hậu mỹ thuật Đông Dương” nối tiếp sự nghiệp lao động sáng tạo của mình. Đặc biệt lịch sử đã ghi nhận những thành tựu của lớp nghệ sỹ tiền bối. Dù tiếp xúc với mỹ thuật phương Tây, họ vẫn luôn ý thức tự tin với nền văn hóa truyền thống giàu có độc đáo của mình. Sự kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp Đông - Tây, Âu - Á đã tạo ra một giai đoạn mỹ thuật đáng nhớ. Những tên tuổi các danh họa, nhà điêu khắc như Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tường Lân, Trần Văn Cẩn, Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Lê Thị Lựu, Vũ Cao Đàm, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng, Nguyễn Khang, Dương Bích Liên, Phan Kế An, Mai Văn Hiến, Nguyễn Tiến Chung, Hoàng Tích Chù và hàng trăm họa sỹ có tên tuổi. Với 20 năm đào tạo (1925 - 1945) hàng trăm họa sỹ nhà điêu khắc ra trường đã đi vào cuộc sống lao dộng sáng tạo để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Các triển lãm mỹ thuật Việt Nam trong và ngoài nước đã chứng minh điều đó.Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận có một phân số học giả nước ngoài bị văn hóa - nghệ thuật Việt Nam hấp dẫn. Họ đã say sưa nghiên cứu, tìm hiểu về cái đẹp, cái độc đáo, giàu có của văn hóa mỹ thuật Việt Nam như: V. Tardieu, họa sỹ Giám đốc, người sáng lập Trường Mỹ thuật Đông Dương; Durant (M); Huard (P); Oger (H); Goloubev (V),… đã say mê với khảo cổ học - nghệ thuật Việt Nam.
Tranh Hổ, Tranh dân gian Hàng Trống, Hà Nội
Nguyễn Gia Trí, Ba người phụ nữ, sơn dầu 1934
Riêng Tardieu và Goloubev tận tụy làm việc đến cuối đời, chết ở Việt Nam mà vẫn luyến tiếc sự nghiệp còn bỏ dở. Giống như bác sỹ Yersin, nhà vi trùng học, với miền đất Nha Trang - Khánh Hòa nơi ông đã sống tận tụy với công việc và hết lòng với người dân bản địa cho đến ngày qua đời.Là nhà nghiên cứu, không ai không thừa nhận văn hóa giao lưu. Nhưng giao lưu - phát triển, không có nghĩa là bị triệt tiêu mất gốc một nền văn hóa mà dân tộc ta đã tạo dựng ra từ hàng nghìn năm lịch sử, từ buổi bình minh lịch sử và buổi đầu hình thành dân tộc nhà nước của các vua Hùng (thế kỷ III, IV, TCN).Nhân dịp này, tôi nhắc lại hai cuộc đối thoại mang tính học thuật giữa Bezacier Joncheres và với Nguyễn Đỗ Cung là nhằm ôn lại bài học bổ ích với những người làm Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam; 1/ Để thấy mỹ thuật Việt Nam có một lịch sử lâu đời, phát triển liên tục, giàu truyền thống và bản sắc từ mỹ thuật cổ đến mỹ thuật cận hiện đại; 2/ Để cải chính những sai lầm ngộ nhận mà bấy lâu những học giả còn mang nặng định kiến thực dân, mơ hồ về sự thật lịch sử văn hóa - nghệ thuật Việt Nam. Bảo Tàng Mỹ thuật Việt Nam là câu trả lời xác thực; Nó giống như truyện Kiều, người Việt Nam nào soi vào ai cũng thấy mình trong đó. 3/ Để thấy họa sỹ, nhà nghiên cứu Nguyễn Đỗ Cung đã nung nấu khát vọng và ước mơ phải xây dựng một Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và đào tạo lớp nhà nghiên cứu trẻ kế tục cùng với Viện Nghiên cứu mỹ thuật. Giấc mơ của ông sau hơn 30 năm đã trở thành hiện thực. Ông xứng đáng được vịnh danh là tấm gương yêu nước, yêu văn hóa - nghệ thuật dân tộc. Một công dân - một học giả xuất sắc và uyên bác của nền học thuật nước nhà. Là tác giả đề cương trưng bày Bảo tàng, cũng là người sáng lập Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Viện Nghiên cứu Mỹ thuật Việt Nam. Hai công trình văn hóa mà ông đã dầy công xây dựng có tầm cỡ quốc gia truyền đời cho thế hệ mai sau.
Tài liệu tham khảo:
1. Janse (O): Vietnam, carrefour de peuple et de civilisations (Extrait de France Asia. No 165) Tokyo 1961.2. Groslier (B.P): Indochine, carrefour des arts. Paris 1961.3. Nguyễn Văn Nguyên. Recherche sur la commune Annamite. Hanoi 1939.4. Đào Duy Anh. Việt Nam văn hóa sử cương. NXB Văn hóa Thông tin. Văn hóa đồ đồng và trống đồng Lạc Việt. Hà Nội 1957.5. Lê Thành Khôi. Vietnam, histoire et civilisations. Paris 1955.6. Nguyễn Khắc Viện. Hà Nội Thăng Long. Tác phẩm. Tập1. NXB Lao Động 2003.7. Nguyễn Đỗ Cung. Bàn về Mỹ thuật Việt Nam. Viện Mỹ thuật. Hà Nội 1993.8. L.Bezacier. Essais sur l’ art Annamite. Hanoi 1944. L’Art Việt Nam. Paris1954.9. Lê Văn Lan, Phạm Văn Kỉnh, Nguyễn Linh. Vết tích đầu tiên của thời đại đồ đồng thau Việt Nam. NXB Khoa học xã hội 1963.10. Kỷ yếu Trường Đại Học Mỹ thuật Hà Nội ( 1925 - 1995)
T.T
(Bài đăng trên Tạp chí Mỹ thuật Nhiếp ảnh số tháng 11+12/2015)